Bản án 44/2023/KDTM-ST về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 5, THÀNH PHỐ H CHÍ MINH

BẢN ÁN 44/2023/KDTM-ST NGÀY 28/09/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA

Trong ngày 28/9/2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 28/2022/TLST-KDTM ngày 20 tháng 7 năm 2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 149/2023/QĐXXST-DS ngày 07 tháng 8 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 85/2023/QĐST-DS ngày 31/8/2023, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Công ty cổ phần S; trụ sở: Lô S, Đường số E Khu công nghiệp N, xã P, huyện N, tỉnh Đồng Nai. Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Tiến T - Tổng giám đốc. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Bảo Q; địa chỉ 513/41/14/31 L, phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh, (có đơn xin vắng mặt)

Bị đơn: Công ty cổ phần K; Trụ sở: 2 A, Phường A, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh. Người đại diện theo pháp luật: Ông Hoàng Văn L - Giám đốc; địa chỉ: 2 A, Phường A, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện đề ngày 31/12/2021, bản tự khai, các biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ, biên bản về việc không tiến hành hòa giải được nguyên đơn Công ty cổ phần S ủy quyền cho ông Lê Bảo Q đại diện trình bày: Công ty cổ phần S (gọi tắt là Công ty S) và Công ty cổ phần K (gọi tắt là công ty K) đã ký Hợp đồng nguyên tác số 001/HĐNTMQ-VP ngày 20/7/2020 và Phụ lục Hợp đồng số 006/HĐMBMQ-VP vào tháng 12/2020 về việc mua bán hàng hóa là các sản phẩm gỗ thông pallet với giá 236.774.990 đồng. Sau khi ký hợp đồng và phụ lục hợp đồng, Công ty S đã đặt cọc cho Công ty K số tiền 228.757.893 đồng tương đương 70% giá trị của hợp đồng. Tuy nhiên, kể từ khi nhận tiền cọc nêu trên công ty K vẫn chưa giao hàng cho Công ty S. Vào ngày 24/12/2021, Công ty S đã gửi Công văn về việc yêu cầu giao hàng theo Hợp đồng cho công ty K, trong đó yêu cầu Công ty K sắp xếp và thông báo thời gian cụ thể để Công ty S đến kho của Công ty K kiểm tra và nhận hàng. Tuy nhiên cho đến nay Công ty K vẫn không giao hàng cho Công ty S. Nay Công ty S yêu cầu Tòa án buộc Công ty cổ phần K trả lại số tiền đã nhận là 228.757.893 đồng và lãi suất theo quy định của pháp luật, tạm tính kể từ ngày 24/12/2020 đến ngày 28/9/2023 là 51.171.574 đồng. Tổng cộng là 279.929.467 đồng.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã có thông báo thụ lý vụ án số: 28/TB-TLVA và đã niêm yết thông báo thụ lý và Giấy triệu tập, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hoà giải kể cả Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa để bị đơn là Công ty K có ông Hoàng Văn L là đại diện theo pháp luật đến Tòa án để làm việc, tham gia tố tụng, nhưng Công ty K không đến Tòa án để trình bày đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tại phiên toà hôm nay, Công ty K vẫn vắng mặt lần thứ hai không có lý do nên không có lời khai của Công ty K có ông Hoàng Văn L là đại diện theo pháp luật. Xét thấy Tòa án đã tiến hành các thủ tục tố tụng đối với bị đơn nhưng bị đơn vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng, là thuộc trường hợp cố tình vắng mặt, gây trở ngại cho việc giải quyết vụ án. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

Tại phiên toà Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:

- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Việc chấp hành pháp luật của Hội đồng xét xử là đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền, xác định đúng tư cách pháp lý của những người tham gia tố tụng, quan hệ pháp luật tranh chấp, tuy nhiên có vi phạm về thời hạn chuẩn bị xét xử. Tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm.

- Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự: Đối với nguyên đơn đã thực hiện đúng các quy định tại các Điều 70, Điều 71, Điều 234 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày của đương sự, xét thấy ngày 20/7/2020 Công ty S và Công ty K có ký Hợp đồng nguyên tác số 001/HĐNTMQ-VP và Phụ lục Hợp đồng số 006/HĐMBMQ-VP vào tháng 12/2020. Việc Công ty K vi phạm nghĩa vụ giao hàng nên có trách nhiệm trả lại số tiền đã nhận 228.757.893 đồng và lãi suất theo quy định. Do đó, đề nghị Hội đồng xét chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, án phí do bị đơn chịu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng:

Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả lại số tiền đã đặt cọc theo nội dung Hợp đồng nguyên tác số 01/HĐNTMQ-VP ngày 20/7/2020 và Phụ lục hợp đồng số 006/HĐMQ-VP tháng 12/2020. Xét đây là vụ án tranh chấp về kinh doanh thương mại cụ thể là Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các tổ chức có đăng ký kinh doanh và đều có mục đích lợi nhuận nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự Căn cứ Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp công ty cổ phần thì bị đơn Công ty cổ phần K có trụ sở tại 2 A, Phường A, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 5 theo quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

Nguyên đơn Công ty cổ phần S có ông Lê Bảo Q đại diện có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn Công ty cổ phần K có ông Hoàng Văn L là đại diện theo pháp luật đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2]. Về yêu cầu của đương sự:

[2.1] Công ty S đề nghị Tòa án buộc Công ty V trả lại số tiền đã nhận là 228.757.893 đồng và lãi suất theo quy định của pháp luật, tạm tính kể từ ngày 24/12/2020 đến ngày 28/9/2023 là 51.171.574 đồng.

Căn cứ Hợp đồng nguyên tác số 01/HĐNTMQ-VP ngày 20/7/2020 và Phụ lục hợp đồng số 006/HĐMQ-VP tháng 12/2020 giữa Công ty S và Công ty K có cơ sở xác định giữa Công ty S và công ty K có thỏa thuận việc mua bán hàng hóa với nội dung cụ thể như sau: Công ty K đồng ý bán cho Công ty S các sản phẩm gỗ thông pallet (loại 500MM-700MM, 800MM-1700MM, 1800MM-2800MM) với số lượng 89,5m3, với giá 326.774.990 đồng. Công ty S đặt cọc trước 70% giá trị đơn hàng là 228.757.893 đồng, sau khi các bên chốt số lượng, ký biên bản giao nhận hàng hóa tại kho của công ty K thì Công ty S phải thanh toán cho Công ty K 30% giá trị đơn hàng còn lại là 98.017.097 đồng.

Xét Hợp đồng nguyên tắc số 01/HĐNTMQ-VP ngày 20/7/2020 và Phụ lục hợp đồng số 006/HĐMQ-VP tháng 12/2020 mà Công ty S và Công ty K đã ký kết là hoàn toàn tự nguyện, tuân thủ đúng quy định của pháp luật về nội dung lẫn hình thức, nên đây là giao dịch dân sự hợp pháp và làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên kể từ khi ký kết.

Căn cứ danh sách lệnh chuyển khoản số VND081 ngày 23/12/2020 của Công ty S có xác nhận của Ngân hàng Đ - Chi nhánh N, Thành phố Hồ Chí Minh có cơ sở xác định Công ty S đã chuyển cho Công ty K số tiền cọc là 228.757.893 đồng. Công ty S đã có công văn số 01/CV-MQ-VP ngày 23/12/2021 yêu cầu Công ty K giao hàng theo nội dung hợp đồng đã ký kết nhưng theo như lời trình bày của nguyên đơn thì bị đơn vẫn chưa giao hàng như đã thỏa thuận.

Bị đơn đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý; giấy triệu tập; thông báo tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; quyết định đưa vụ án ra xét xử; giấy triệu tập tham gia phiên tòa nhưng không có ý kiến cũng như không nộp các tài liệu, chứng cứ có liên quan đến vụ án. Vì vậy, bị đơn đã tự tước bỏ quyền được chứng minh của mình, phải chịu hậu quả của việc không chứng minh theo quy định tại Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Đồng thời, tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh”. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ yêu cầu khởi kiện, lời trình bày cũng như chứng cứ do nguyên đơn cung cấp để làm cơ sở xem xét giải quyết vụ án.

Điều 34 của Luật Thương mại quy định về Giao hàng và chứng từ liên quan đến hàng hóa như sau: “Bên bán phải giao hàng, chứng từ theo thỏa thuận trong hợp đồng về số lượng, chất lượng, cách thức đóng gói, bảo quản và các quy định khác trong hợp đồng. Trường hợp không có thỏa thuận cụ thể, bên bán có nghĩa vụ giao hàng và chứng từ liên quan theo quy định của Luật này” Khoản 4 Điều 312 của Luật Thương mại quy định về Hủy bỏ hợp đồng như sau: “4. Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này, chế tài hủy bỏ hợp đồng được áp dụng trong các trường hợp sau đây: a) Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để hủy bỏ hợp đồng; b) Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.” Xét thấy khi khởi kiện nguyên đơn yêu cầu bị đơn tiếp tục thực hiện nghĩa vụ giao hàng theo như thỏa thuận tại Hợp đồng nguyên tắc số 01/HĐNTMQ-VP ngày 20/7/2020 và Phụ lục hợp đồng số 006/HĐMQ-VP tháng 12/2020. Tuy nhiên tại phiên họp về việc kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và biên bản về việc không tiến hành hòa giải được nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả lại số tiền đã nhận là 228.757.893 đồng và lãi suất theo quy định của pháp luật kể từ ngày 23/12/2020 cho đến khi bị đơn thanh toán hết số nợ. Hội đồng xét xử xét thấy tuy nguyên đơn không có yêu cầu hủy hợp đồng đã ký kết giữa các bên do bị đơn vị phạm nghĩa vụ cơ bản theo quy định tại Điều 312 của Luật Thương mại nhưng để giải quyết triệt để vụ án cần thiết phải tuyên hủy bỏ Hợp đồng nguyên tác số 01/HĐNTMQ-VP ngày 20/7/2020 và Phụ lục hợp đồng số 006/HĐMQ-VP tháng 12/2020 giữa nguyên đơn và bị đơn mới có thể giải quyết hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng theo yêu cầu của nguyên đơn.

Điều 314 của Luật Thương mại quy định về Hậu quả pháp lý của việc hủy bỏ hợp đồng như sau: “1. Trừ trường hợp quy định tại Điều 313 của Luật này, sau khi hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp đồng, trừ thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ sau khi hủy bỏ hợp đồng và về giải quyết tranh chấp. 2. Các bên có quyền đòi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình theo hợp đồng; nếu các bên đều có nghĩa vụ hoàn trả thì nghĩa vụ của họ phải được thực hiện đồng thời; trường hợp không thể hoàn trả bằng chính lợi ích đã nhận thì bên có nghĩa vụ phải hoàn trả bằng tiền. 3. Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật này.” Do Công ty K không thực hiện nghĩa vụ giao hàng theo như thỏa thuận tại Hợp đồng nguyên tắc số 01/HĐNTMQ-VP ngày 20/7/2020 và Phụ lục hợp đồng số 006/HĐMQ-VP tháng 12/2020 nên Công ty S yêu cầu Công ty K trả lại số tiền cọc đã nhận là phù hợp với các quy định tại Điều 34, Điều 312 và Điều 314 của Luật Thương mại nên có cơ sở chấp nhận. Tổng số tiền cọc mà Công ty K phải trả cho Công ty S là 228.757.893 đồng.

[2.2] Đối với yêu cầu công ty K phải trả số tiền lãi chậm trả của số tiền cọc tạm tính từ ngày 24/12/2020 đến ngày 28/9/2023 là 51.171.574 đồng.

Theo Điều 306 Luật Thương mại năm 2005 quy định: “Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Việc nguyên đơn yêu cầu bị đơn hoàn trả lại tiền cọc do bị đơn vị phạm hợp đồng là phù hợp với quy định tại Điều 306 Luật Thương mại năm 2005 và nội dung Án lệ số 09/2016/AL do Tòa án nhân dân tối cao công bố ngày 17/10/2016.

Tòa án đã xác minh lãi suất nợ quá hạn trung bình của 03 ngân hàng tại Thành phố Hồ Chí Minh gồm: Ngân hàng N1 chi nhánh Thành phố H: lãi suất ngắn hạn thông thường là 6,1%/năm, trung và dài hạn là 10,5%/năm, Ngân hàng C: lãi suất ngắn hạn là 9%/năm, lãi suất cho vay trung và dài hạn là 12%/năm, lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn và Ngân hàng N2 thì lãi suất cho vay ngắn hạn là 9%/năm, lãi suất cho vay trung hạn là 10,5%/năm, lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn. Như vậy nguyên đơn yêu cầu bị đơn chậm trả lãi theo lãi suất 8,1%/ năm là có lợi cho bị đơn do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn thanh toán tiền lãi chậm trả cho nguyên đơn từ ngày 24/12/2020 đến ngày 28/9/2023 là 51.171.574 đồng. Tiền lãi chậm thanh toán tiếp tục tính từ ngày 29/9/2023 cho đến khi bị đơn thanh toán cho nguyên đơn hết số tiền nợ trên. Như vậy Hội đồng xét xử buộc bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn số tiền cọc đã nhận và tiền lãi chậm trả tổng cộng là 279.929.467 đồng.

Từ những phân tích và nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử thống nhất với ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

[3]- Về án phí kinh doanh thương mại: Công ty K phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận, nên nguyên đơn không phải chịu án phí, được trả lại tiền tạm ứng án phí đã nộp;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 30, điểm b Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 157, Điều 158, khoản 1, khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 271, Điều 273, Điều 278 và Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 357; Điều 401 và Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 24, 34, 306, 312, 314 của Luật Thương mại;

Căn cứ Điều 11 của Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Căn cứ Luật Thi hành án dân sự.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty cổ phần S.

Tuyên hủy Hợp đồng nguyên tắc số 01/HĐNTMQ-VP ngày 20/7/2020 và Phụ lục hợp đồng số 006/HĐMQ-VP tháng 12/2020 giữa Công ty cổ phần S và Công ty cổ phần K.

Buộc Công ty cổ phần K phải trả cho Công ty cổ phần S số tiền cọc đã nhận là 228.757.893 đồng (hai trăm hai mươi tám triệu bảy trăm năm mươi bảy ngàn tám trăm chín mươi ba đồng và lãi suất của số tiền trên tạm tính kể từ ngày 24/12/2020 đến ngày 28/9/2023 là 51.171.574 đồng (năm mươi mốt triệu một trăm bảy mươi mốt ngàn năm trăm bảy mươi bốn đồng). Tổng cộng là 279.929.467 đồng (hai trăm bảy mươi chín triệu chín trăm hai mươi chín ngàn bốn trăm sáu mươi bảy đồng). Trả ngay một lần khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 2. Về án phí: Công ty cổ phần K phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm là 13.996.473 đồng (mười ba triệu chín trăm chín mươi sáu ngàn bốn trăm bảy mươi ba đồng);

Hoàn trả lại cho Công ty cổ phần S số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 8.169.375 đồng (tám triệu một trăm sáu mươi chín ngàn ba trăm bảy mươi lăm đồng) tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/20 21/0010028 ngày 20/7/2022 của Chi cục thi hành án dân sự Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Án xử sơ thẩm thẩm công khai, các đương sự vắng mặt có thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

39
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 44/2023/KDTM-ST về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa

Số hiệu:44/2023/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 5 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 28/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;