Bản án 44/2021/HS-ST ngày 11/06/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, TỈNH NINH BÌNH

 BẢN ÁN 44/2021/HS-ST NGÀY 11/06/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 11 tháng 06 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện K, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 42/2021/TLST- HS ngày 11 tháng 05 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 43/2021/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 05 năm 2021 đối với bị cáo:

Vũ Văn T (tên gọi khác: Không); sinh năm 1976 tại Ninh Bình; nơi cư trú: xóm M, xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con Vũ Văn Q (đã chết) và bà Nguyễn Thị M. Bị cáo có vợ là Phạm Thị P và chưa có con Tiền án: Không Tiền sự: Ngày 15/9/2020 Vũ Văn T bị Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Ninh Bình ra Quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Quyết định số21 /QĐ-TA ngày 15/9/2020, hiện bị cáo chưa thi hành.

Lịch sử bản thân:

- Ngày 08/11/2012 bị Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Ninh Bình xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo bản án số 46/2012/HSST bị cáo đã chấp hành xong hình phạt và án phí ngày 24/01/2017.

- Ngày 22/12/2019 bị Công an xã K ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính cảnh cáo về hành vi sử dụng trái phép ma túy.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/12/2020 đến ngày 29/12/2020 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

+ Anh Trần Văn T1 – sinh năm 1993; Địa chỉ: Xóm 8, xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình; vắng mặt.

+ Chị Phạm Thị P– sinh năm 1981; Địa chỉ: Xóm M, xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình; có mặt.

+ Anh Vũ Huy P1 – sinh năm 1956; Địa chỉ: Xóm M, xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình; có mặt + Anh Trần Văn L – sinh năm 1966; Địa chỉ: Xóm M, xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình; vắng mặt.

+ Anh Hoàng Thế Đ – sinh năm 1986; Địa chỉ: Thôn Y, xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình; vắng mặt.

- Người chứng kiến: Anh Phạm Đức T2; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do là người sử dụng ma túy và biết bán ma túy mang lại lợi nhuận cao nên trong khoảng thời gian từ ngày 19 tháng 12 năm 2020 và ngày 20 tháng 12 năm 2020 Vũ Văn T đã mua Heroine về chia nhỏ ra để sử dụng và bán lại cho người nghiện ma túy để kiếm lời. Cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 19/12/2020, khi đang cùng vợ đi mua đồ cá nhân thì T nhận được điện thoại từ số 0836.175.2xx của Trần Văn T1 (SN 1993, trú tại xóm 8, xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình) gọi vào hai số 0787.181.8xx và 0796.076.1xx của T hỏi mua 300.000đ Heroine thì T đồng ý và hẹn 40-50 phút sau ra khu vực trường học bỏ hoang thuộc xóm M, xã K, huyện K để nhận ma túy. Tại đây T đã bán cho T1 01 gói Heroine được gói ngoài bằng giấy bạc màu vàng với giá 300.000đ, Tuấn đã sử dụng hết gói Heroine trên.

Lần thứ hai: Khoảng 12 giờ 20 phút ngày 20/12/2020, Vũ Văn T nhận được điện thoại của Trần Văn T1 gọi vào số điện thoại 0787.181.8xx của T hỏi mua 500.000đ Heroine, T đồng ý và hẹn T1 đến đoạn đường trước cổng nhà thờ họ thuộc xóm M, xã K, huyện K. Tại điểm hẹn T đã bán cho T1 01 gói Heroine được gói bằng giấy bạc màu vàng với giá 500.000đ, gói ma túy sau đó T1 đã sử dụng hết.

Lần thứ ba: Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 20/12/2020 khi T đang ở nhà thì nhận được điện thoại của Trần Văn T1 gọi vào số 0787.181.8xx của T hỏi mua 300.000 đồng Heroine. T đồng ý và hẹn T1 đến trước nhà T. Sau đó T mang gói Heroine được gói bằng giấy bạc màu vàng đi ra đứng trước cửa nhà chờ để bán cho T1 thì bị Tổ Công tác Công an tỉnh Ninh Bình phát hiện, kiểm tra, lúc này T thả gói Heroine đang cầm trên tay phải xuống mặt đất, khi được lực lượng chức năng yêu cầu, T đã tự cầm gói nhỏ lên và tự khai nhận đó là Heroine được mang đi bán cho Trần Văn T1. Ngay tại chỗ, Tổ Công tác đã tiến hành niêm phong gói nhỏ thu giữ và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với T, thu giữ 03 điện thoại di động, bao gồm 02 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen và 01 điện thoại Oppo màu đen; thu giữ 01 ví da màu đen, bên trong có số tiền 5.000.000 đồng. Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Vũ Văn T lực lượng chức năng thu giữ 01 túi nilon màu trắng bên trong có chứa 09 gói nhỏ được gói ngoài bằng giấy bạc màu vàng; thu giữ trên chạn bát ở gian bếp nhà T 01 cân điện tử bằng nhựa màu bạc; 01 cân điện tử bằng nhựa vỏ màu đen và 08 mảnh giấy, trong đó có 05 mảnh giấy vỏ bao thuốc lá màu xanh và 03 mảnh giấy bạc màu vàng; thu giữ tại gian bếp nhà T 03 chiếc xe mô tô gồm: 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA Exciter màu xanh trắng BKS 35B1 – 649.10; 01 xe mô tô nhãn hiệu Wave màu xanh BKS 35F5 – 4288; 01 xe mô tô HONDA Vision màu đen xám BKS 35K1 – 443.63.

Đông thời thu giữ của Trần Văn T1 01 điện thoại Masstel màu đen có lắp sim số 0836.175.278 và 01 điện thoại Samsung màu đen không lắp sim.

Cơ quan CSĐT – Công an tỉnh Ninh Bình tiến hành cân xác định các gói nhỏ thu giữ của T gồm: gói khi bắt quả tang kí hiệu “A1” được gói ngoài bằng giấy bạc màu vàng bên trong có chất bột dạng cục màu trắng, có khối lượng 0,1431 gam kí hiệu M1; 09 gói nhỏ được gói ngoài bằng giấy bạc màu vàng khi khám xét chỗ ở của T kí hiệu B bên trong đều là chất bột dạng cục màu trắng có tổng khối lượng 1,3062 gam kí hiệu M2. Các mẫu vật M1 và M2 được gửi trưng cầu giám định.

Tại bản kết luận giám định số 40/KLGĐ-PC09-MT ngày 28/12/2020 của Phòng Công an phòng kĩ thuật hình sự tỉnh Ninh Bình kết luận: Mẫu chất bột màu trắng kí hiệu M1 có khối lượng 0,1431; M2 có khối lượng 1,3062. Tổng khối lượng chất bột màu trắng trong các mẫu M1, M2 là 1,4493 gam đều là ma túy, loại Heroine.

Heroin là chất ma túy thuộc bảng danh mục I, số thứ tự 9; Nghị định số 73/2018/NĐ –CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính Phủ.

Quá trình điều tra, Vũ Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Cáo trạng số 44/CT-VKS - KS ngày 07/05/2021 Viện kiểm sát nhân dân huyện K, tỉnh Ninh Bình truy tố bị cáo Vũ Văn T về tội: “ Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà Kiểm sát viên tham gia phiên toà giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Vũ Văn T phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy.

+ Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; các điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Vũ Văn T từ 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù đến 08 (tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ bị cáo là ngày 20 tháng 12 năm 2020.

Về xử lý vật chứng và áp dụng các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật Hình sự xử lý như sau:

Tịch thu tiêu hủy các vật chứng của vụ án gồm:

- Khối lượng ma túy gồm M1 = 0,0556 gam và M2 = 1,0990 gam còn lại sau giám định và toàn bộ vỏ bao gói niêm phong ban đầu trong một 01 phong bì niêm phong ghi số 40/KLGĐ – PC09 – MT.

- 01 phong bì niêm phong bên trong có que thử nước tiểu của Vũ Văn T, ký hiệu Q - 01 phong bì niêm phong bên trong có que thử nước tiểu của Trần Văn T1 ký hiệu Q1.

- 01 cân tiểu ly điện tử bằng nhựa màu bạc, 01 cân tiểu ly điện tử bằng nhựa màu đen, 05 mảnh giấy vỏ bao thuốc lá màu xanh và 03 mảnh giấy bạc màu vàng.

- 01 phong bì niêm phong ban đầu bên trong có phong bì niêm phong ký hiệu A1,B; vỏ túi ni lông màu trắng, mười mảnh giấy bạc màu vàng phong bì ký hiệu V; 01 phong bì ký hiệu A2 bỏ trong phong niêm phong bì ký hiệu ĐT2.

Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 Chiếc điện thoại di động Nokia màu đen thu giữ của bị Vũ Văn T được bỏ trong phong niêm phong ký hiệu ĐT1.

Tịch thu ngân sách nhà nước số tiền 800.000đ do bị cáo đã bán ma túy cho anh Trần Văn T1 vào buổi chiều ngày 19 tháng 12 năm 2020 và buổi trưa ngày 20 tháng 12 năm 2020 Trả lại cho bị cáo Vũ Văn T 01 điện thoại di động Nokia màu đen và 01 Điện thoại Oppo màu đen bỏ trong phong niêm phong bì ký hiệu ĐT2 nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Vũ Văn T số tiền 4.200.000.000đ và 01 ví da màu đen nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo Thi hành án.

- Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án bị cáo Vũ Văn T phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo Vũ Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình như cáo trạng đã truy tố. Bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luận gì và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà bị cáo Vũ Văn T khai nhận: Bản thân bị cáo là người nghiện ma túy lại không có công ăn việc làm ổn định, do vậy bị cáo đã mua ma túy về sử dụng cho bản thân và nếu các con nghiện ai có nhu cầu mua thì bị cáo bán lại để kiếm lời. Trong các ngày 19 và 20 tháng 12 năm 2020 bị cáo đã bán ma túy cho đối tượng Trần Văn T1 như sau:

Lần thứ nhất: Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 19/12/2020, tại khu vực trường học bỏ hoang thuộc xóm M, xã K, huyện K. Tại đây T đã bán cho T1 01 gói Heroine được gói ngoài bằng giấy bạc màu vàng với giá 300.000đ, Lần thứ hai: Khoảng 12 giờ 20 phút ngày 20/12/2020, tại đoạn đường trước cổng nhà thờ họ thuộc xóm M, xã K, huyện K, bị cáo đã bán cho T1 01 gói Heroine được gói bằng giấy bạc màu vàng với giá 500.000đ.

Lần thứ ba: Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 20/12/2020 khi T đang ở nhà thì nhận được điện thoại của Trần Văn T1 hỏi mua 300.000 đồng Heroine. T đồng ý và hẹn T1 đến trước nhà T. Khi T mang gói Heroine được gói ngoài bằng giấy bạc màu vàng ra đang đứng trước cửa nhà chờ để bán cho T1 thì bị Tổ Công tác Công an tỉnh Ninh Bình phát hiện, kiểm tra và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với bị cáo.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 15 giờ 00 phút ngày 20 tháng 12 năm 2020, phù hợp với biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ lập hồi 16 giờ 50 phút ngày 20 tháng 12 năm 2020, phù hợp với biên bản khám xét lập hồi 17 giờ 20 phút ngày 20 tháng 12 năm 2020 và phù hợp kết luận giám định đồng thời lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến và phù hợp với các vật chứng đã thu giữ cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ cơ sở kết luận:

Trong các ngày 19 và 20/12/2020 tại xóm M, xã K, huyện K, Vũ Văn T có hành vi 02 lần bán ma túy cho người khác, đồng thời cất giấu ma túy trái phép để bán và sử dụng cho bản thân cụ thể: Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 19/12/2020, Vũ Văn T bán trái phép 01 gói Heroine cho Trần Văn T1 lấy 300.000đ. Khoảng 12 giờ 20 phút ngày 20/12/2020, Vũ Văn T bán trái phép 01 gói Heroine cho Trần Văn T1 lấy 500.000đ. Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 20/12/2020 Vũ Văn T mang theo người trái phép 01 gói Heroine có khối lượng 0,1431 gam mục đích bán cho Trần Văn T1 và cất giấu tại nơi ở 1,3062 gam Heroine để sử dụng và bán cho người khác thu lợi bất chính.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: Tội mua bán trái phép chất ma túy quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát truy tố bị cáo Vũ Văn T là có căn cứ, đúng pháp luật.

Điều 251. Tội mua bán trái phép chất ma tuý 1. Người nào mua bán trái phép chất ma tuý, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

b, Phạm tội 02 lần trở lên.

.........

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản” [3]. Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý chất ma tuý của Nhà nước; ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội những khách thể được luật hình sự bảo vệ và là nguyên nhân phát sinh của nhiều tội phạm khác, gây mất an ninh chính trị và gây ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội của đại đa số người dân. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ Heroin là chất ma tuý bị Nhà nước cấm mua bán, tàng trữ và sử dụng nhưng với mục đích vụ lợi trước mắt mà bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Do đó cần có hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục, cải tạo bị cáo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Vũ Văn T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự - Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Buổi chiều ngày 20/12/2020 sau khi bị bắt quả tang về hành vi phạm tội của mình. Buổi tối cùng ngày quá trình làm việc với cơ quan chức năng bị cáo đã tự khai ra những lần bán ma túy trước đó cho anh T1 vào buổi chiều ngày 19 tháng 12 năm 2020 và buổi trưa ngày 20 tháng 12 năm 2020. Như vậy bị cáo Vũ Văn T được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, người phạm tội tự thú được theo quy định tại các điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì mức hình phạt do Kiểm sát viên đề nghị là phù hợp. Bản thân bị cáo trước đó đã bị xử phạt 7 năm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy những không lấy đó làm bải học cho bản thân, sau khi chấp hành án bị cáo trở về về địa phương nhưng vẫn tiếp tục nghiện ma túy và lao vào con đường phạm tội. Năm 2020 bị cáo bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính cai nghiện bắt buộc tại cơ sở cai nghiện bắt buộc nhưng bị cáo đã chưa kịp thi hành. Do vậy Hội đồng xét xử thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để tạo điều kiện cho bị cáo yên tâm cải tạo, cai nghiện trở thành người có ích cho gia đình và xã hội. Như vậy cần áp dụng mức hình phạt thật nghiêm khắc cho bị cáo nhằm mục đích giáo dục bị cáo và góp phần vào việc đấu tranh phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Vũ Văn T mua bán ma túy với mục đích phục vụ cho nhu cầu của bản thân và bán lại cho con nghiện nhằm thu lời bất chính.

Nhưng qua xác minh tại chính quyền địa phương và gia đình thì bị cáo không có tài sản riêng, còn đang sống nhờ vào bố mẹ và bản thân bị cáo không có công ăn việc làm ổn định, do vậy không áp dụng thêm hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Trong vụ án này có đối tượng Trần Văn T1 là người mua ma túy của T về để sử dụng, tuy nhiên Cơ quan điều tra không thu giữ được số Heroine mà T1 mua vì đã sử dụng hết. Do vậy, chưa đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với T1.

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho Vũ Văn T tại khu vực thị trấn H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa ngày 17/12/2020, do T không biết tên tuổi, địa chỉ người này nếu gặp lại T cũng không nhận dạng được. Do vậy, Cơ quan CSĐT Công an huyện K không có cơ sở để điều tra, xử lý.

[6] Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp: Quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện K đã trả Xe mô tô nhãn hiệu Wave màu xanh, BKS 35F5-4288 cho chị Phạm Thị P; trả xe mô tô YAMAHA EXCITER màu xanh trắng, BKS 35B1-649.10 cho anh Vũ Huy P1; trả Xe mô tô Honda Vision màu đen xám, BKS 35K1-443.63 cho anh Trần Văn L; trả 02 điện thoại gồm 01 điện thoại Masstel màu đen có lắp sim số 0836.175.278 và 01 điện thoại nhãn cho thu giữ của Trần Văn T1 do T1 mượn của anh Hoàng Thế Đ. Những vật chứng trên không liên quan đến việc phạm tội. Việc trả lại các vật chứng trên của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện K là đúng vê trình tự, thủ tục và thẩm quyền. Do vậy Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Đối với tệp tin đĩa DVD sao trích 05 tập tin ghi âm cuộc gọi từ máy điện thoại tạm giữ của Trần Văn T1 tiếp tục lưu trữ theo hồ sơ vụ án.

Những vật chứng còn lại của vụ án căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật Hình sự xử lý như sau:

- Khối lượng ma túy gồm M1 = 0,0556 gam và M2 = 1,0990 gam còn lại sau giám định và toàn bộ vỏ bao gói niêm phong ban đầu trong một 01 phong bì niêm phong ghi số 40/KLGĐ – PC09 – MT đây các vật chứng của vụ án mà nhà nước cấm buôn bán và công cụ phục vụ cho quá trình điều tra tội phạm nay cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 phong bì niêm phong bên trong có que thử nước tiểu của Vũ Văn T, ký hiệu Q; 01 phong bì niêm phong bên trong có que thử nước tiểu của Trần Văn T1 ký hiệu Q1; 01 phong bì niêm phong ban đầu bên trong có phong bì niêm phong ký hiệu A1,B; vỏ túi ni lông màu trắng, mười mảnh giấy bạc màu vàng phong bì ký hiệu V cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 cân tiểu ly điện tử bằng nhữa màu bạc, 01 cân tiểu ly điện tử bằng nhựa màu đen do không còn giá trị sử dụng, 05 mảnh giấy vỏ bao thuốc lá màu xanh và 03 mảnh giấy bạc màu vàng là những vật chứng liên quan đến việc phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 Chiếc điện thoại di động Nokia màu đen thu giữ của bị Vũ Văn T được bỏ trong phong một phong bì niêm phong ký hiệu ĐT1 bị cáo sử dụng liên lạc với T1 khi bán ma túy, liên quan đến việc phạm tội nên cần tịch thu sung ngân sách nhà nước Số tiền 800.000đ do bị cáo đã bán ma túy cho anh Trần Văn T1 vào buổi chiều ngày 19 tháng 12 năm 2020 và buổi trưa ngày 20 tháng 12 năm 2020. Đây là số tiền do bị cáo phạm tội mà có nên nay cần tịch thu để sung ngân sách nhà nước Đối với 01 điện thoại di động Nokia màu đen và 01 Điện thoại Oppo màu đen bỏ trong phong bì niêm phong ký hiệu ĐT2, do không liên quan đến việc phạm tội do vậy nay cần trả lại cho bị cáo Vũ Văn T nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án. 01 phong bì niêm phong ký hiệu A2 bỏ trong phong bì niêm phong ký hiệu ĐT2 cần tich thu tiêu hủy.

Số tiền 5.000.000đ thu giữ của bị cáo trong đó có 800.000đ tịch thu sung ngân sách nhà nước. Số tiền còn lại là 4.200.000đ và 01 ví da màu đen do không liên quan đến việc phạm tôi nên nay cần trả lại cho bị cáo Vũ Văn T nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

[7] Về án phí: Bị cáo Vũ Văn T phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[8] Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[9] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện K, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện K, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra , truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên

 QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố bị cáo Vũ Văn T phạm tội: “ Mua bán trái phép chất ma túy”

+ Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; các điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Vũ Văn T 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ bị cáo là ngày 20 tháng 12 năm 2020.

2.Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật Hình sự.

Tịch thu tiêu hủy các vật chứng bao gồm:

- Khối lượng ma túy gồm M1 = 0,0556 gam và M2 = 1,0990 gam còn lại sau giám định và toàn bộ vỏ bao gói niêm phong ban đầu trong một 01 phong bì niêm phong ghi số 40/KLGĐ – PC09 – MT.

- 01 phong bì niêm phong bên trong có que thử nước tiểu của Vũ Văn T, ký hiệu Q - 01 phong bì niêm phong bên trong có que thử nước tiểu của Trần Văn T1, ký hiệu Q1.

- 01 phong bì niêm phong ban đầu bên trong có phong bì niêm phong ký hiệu A1,B; vỏ túi ni lông màu trắng, mười mảnh giấy bạc màu vàng phong bì ký hiệu V - 01 cân tiểu ly điện tử bằng nhựa màu bạc, 01 cân tiểu ly điện tử bằng nhựa màu đen, 05 mảnh giấy vỏ bao thuốc lá màu xanh và 03 mảnh giấy bạc màu vàng, - 01 phong bì niêm phong ký hiệu A2 bỏ trong phong bì niêm phong ký hiệu ĐT2.

Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 Chiếc điện thoại di động Nokia màu đen thu giữ của bị Vũ Văn T được bỏ trong phong một phong bì niêm phong ký hiệu ĐT1.

Tịch thu ngân sách nhà nước số tiền 800.000đ do bị cáo đã bán ma túy cho anh Trần Văn T1 vào buổi chiều ngày 19 tháng 12 năm 2020 và buổi trưa ngày 20 tháng 12 năm 2020.

Trả lại cho bị cáo Vũ Văn T 01 điện thoại di động Nokia màu đen và 01 Điện thoại Oppo màu đen bỏ trong phong bì niêm phong ký hiệu ĐT2. Nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Vũ Văn T số tiền 4.200.000.000đ và 01 ví giả da màu đen nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo Thi hành án.

( Chi tiết vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 11 tháng 05 năm 2021 và giấy ủy nhiệm chi chuyển khoản, chuyển tiền điện tử ngày 13 tháng 05 năm 2021 giữa Công an huyện K với Chi cục Thi hành án dân sự huyện K, tỉnh Ninh Bình).

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bị cáo Vũ Văn T phải nộp 200.000đ án phí hình sư sơ thẩm để sung ngân sách nhà nước.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm công khai; bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (11/06/2021), người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 44/2021/HS-ST ngày 11/06/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:44/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Sơn - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;