Bản án 44/2021/HSST ngày 03/02/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 1, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 44/2021/HSST NGÀY 03/02/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 1, Tp. Hồ Chí Minh, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 15/2021/HSST ngày 21 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 123/2021/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:

Sa F, sinh năm 1988; tại tỉnh An Giang; Tôn giáo: Hồi giáo; Dân tộc: Chăm; Giới tính: Nam: Hộ khẩu thường trú: Ấp C, xã P, huyện T, tỉnh An Giang; Chỗ ở hiện nay: Ấp C, xã P, huyện T, tỉnh An Giang; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông MM và bà AS; Vợ: Nguyễn Thị H (đã chết); Con: có 01 con, sinh năm 2010;

Bị bắt và tạm giam từ ngày: 14 tháng 10 năm 2020. Tiền án – tiền sự: Không Những người tham gia tố tụng khác:

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Lê Ngọc S, sinh năm 1962 (vắng mặt);

Địa chỉ: 14B Khu phố 3, phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Ông R, sinh năm 1976 (có mặt);

Địa chỉ: 85/8 P, Phường H, Quận T, Tp. Hồ Chí Minh.

- Người làm chứng:

1. Ông Trần Thanh B, sinh năm 1987 (vắng mặt);

Địa chỉ: 178/4 C, phường C, Quận M, Tp. Hồ Chí Minh.

2. Ông Nguyễn Hồng T, sinh năm 1985 (vắng mặt);

Địa chỉ: Nguyễn Hồng T, xã P, huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Ông Trương V, sinh năm 1979 (vắng mặt);

Địa chỉ: 85/35 T, Phường N, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Do có nhu cầu sử dụng ma túy, nên vào khoảng 23 giờ ngày 14/10/2020, Sa F điều khiển xe mô tô biển số 59N1-749XX đến đường D, Quận T gặp một người thanh niên (không rõ lai lịch) mua 01 gói ma túy với giá 1.950.000 đồng.

Sau khi mua được ma túy Sa F điều khiển xe về nhà đến trước nhà số 01 Ph, Phường N, Quận M thì bị các anh Nguyễn Hồng T, Trần Thanh B (Công an phường Nguyễn Cư Trinh) đang tuần tra tại địa bàn thấy Sa F có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy nên yêu cầu về phường Nguyễn Cư Trinh kiểm tra. Tại đây có sự chứng kiến của anh Trương V (bảo vệ dân phố) thu giữ bên trong 01 nón kết đội trên đầu có chứa 01 gói nylon bên trong có 02 viên nén màu vàng, 01 viên nén màu cam, 01 gói ma túy nên các anh Thanh, Bình liền thu giữ vật chứng bắt giữ Sa F lập biên bản bắt người phạm tội quả tang; sau đó chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1 để xử lý.

Theo Bản kết luận giám định số 1813/KLGĐ-H ngày 23/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Tp. Hồ Chí Minh kết luận như sau: 01 gói được niên phong bên ngoài có chứ ký của Sa F và hình dấu Công an Phường N, Quận M bên trong có 01 gói nylon chứa:

- 02 viên nén màu vàng là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,6853 gam loại MDMA;

- 01 viên nén màu cam là ma túy ở thể rắn có khối lượng 0,3705 gam loại MDMA;

- Bột màu trắng trong 01 gói nylon là ma túy ở thể rắn có khối lượng 2,1328 gam loại KetAM.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 1, Sa F khai nhận hành vi phạm tội như nêu trên, lời khai của Sa F phù hợp với các tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Đối với người thanh niên bán ma túy cho Sa F khai không rõ lai lịch tiếp tục truy xét khi làm rõ đủ cơ sở xử lý sau.

Vật chứng:

- 01 gói niêm phong bên trong có tổng khối lượng 1,0558 gam loại MDMA và 2,1328 gam loại KetAM.

Thu giữ của Sa F:

- 01 ĐTDĐ hiệu Vivo có số Imei1: 863188038799812, số Imei 2: 863188038799804;

- 01 ĐTDĐ hiệu Oppo số Imei1: 865460031203839, số Imei2: 865460031203821;

- 01 mũ bảo hiểm, 01 nón kết;

- 01 xe mô tô biển số 59N1-479XX hiệu Yamaha loại Surius có số khung: 10DY-056599, số máy: 1FC1-0566XX. Qua xác minh xe do ông Lê Ngọc S đứng tên đăng ký chủ sở hữu. Ngày 10/06/2019 ông Sơn đã bán xe cho anh R với giá 13.000.000 đồng, có giấy bán xe nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Ngày 11/10/2020 bị cáo mượn xe của anh AM (anh vợ của Sa F) để đi công việc, không biết việc Sa F sử dụng xe này làm phương tiện đi mua ma túy, anh AM có đơn xin lại chiếc xe làm phương tiện đi lại.

Tất cả các vật chứng còn lại hiện đang tạm giữ tại kho vật chứng thuộc Đội CSTHAHS&HTTP Công an Quận 1.

Tại bản cáo trạng số 148/CT-VKS ngày 01 tháng 10 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Sa F về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 tham gia phiên tòa kết luận bị cáo Sa F đã pham tôi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung năm 2017. Sau khi phân tích hành vi phạm tội của bị cáo và đánh giá bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu, chưa tiền án tiền sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 đề nghị xử phạt bị cáo Sa F từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù và căn cứ quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, đề nghị xử phạt bị cáo số tiền 5.000.000 đồng.

Đối với người thanh niên bán ma túy cho Sa F chưa xác định được lai lịch cần tiếp tục điều tra truy xét khi nào làm rõ có đủ cơ sở xử lý sau.

Đối với vật chứng của vụ án, căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 đề nghị Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong bên trong có tổng khối lượng 1,0558 gam loại MDMA và 2,1328 gam loại KetAM; 01 mũ bảo hiểm, 01 nón kết; Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 ĐTDĐ hiệu Vivo có số Imei1: 863188038799812, số Imei 2: 863188038799804 do bị cáo sử dụng liên lạc mua ma túy; Trả lại cho bị cáo 01 ĐTDĐ hiệu Oppo số Imei1: 865460031203839, số Imei2: 865460031203821 do không liên quan đến hành vi phạm tội nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án. Trả lại cho ông R 01 xe mô tô biển số 59N1-479XX hiệu Yamaha loại Surius có số khung: 10DY- 056599, số máy: 1FC1-0566XX do không liên quan đến hành vi phạm tội.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra công an Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thông qua quá trình tranh tụng tại phiên tòa có đủ cơ sở kết luận do nghiện ma túy nên vào khoảng 23 giờ ngày 14/10/2020, tại trước nhà số 01 Ph, Phường N, Quận M, Sa F có hành vi cất giữ 1,0558 gam ma túy loại MDMA và 2,1328 gam ma túy loại KetAM (căn cứ Theo Bản kết luận giám định số 1813/KLGĐ-H ngày 23/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Tp. Hồ Chí Minh) với mục đích sử dụng cho bản thân đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền của nhà nước về quản lý đối với các chất ma túy, gây mất trật tự an toàn của xã hội. Do đó, cần có mức án nghiêm khắc trước pháp luật mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung đối với xã hội.

Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa, nhận thấy bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, phạm tội lần đầu, không có tiền án tiền sự. Đây là căn cứ giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự mà lẽ ra bị cáo phải chịu căn cứ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Ngoài ra, căn cứ khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 xét thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung phạt bị cáo số tiền 5.000.000 đồng nộp ngân sách nhà nước.

Đối với người thanh niên bán ma túy cho Sa F chưa xác định được lai lịch cần tiếp tục điều tra, truy xét khi nào có đủ cơ sở xử lý sau.

[3]. Về xử lý vật chứng: Căn cứ quy định tại Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong bên trong có tổng khối lượng 1,0558 gam loại MDMA và 2,1328 gam loại KetAM; 01 mũ bảo hiểm, 01 nón kết;

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 ĐTDĐ hiệu Vivo có số Imei1: 863188038799812, số Imei 2: 863188038799804 thu giữ của bị cáo do bị cáo sử dụng làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội;

- Trả lại cho bị cáo 01 ĐTDĐ hiệu Oppo số Imei1: 865460031203839, số Imei2: 865460031203821 do không liên quan đến hành vi phạm tội nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án;

- Trả lại cho ông R 01 xe mô tô biển số 59N1-479XX hiệu Yamaha loại Surius có số khung: 10DY-056599, số máy: 1FC1-0566XX do không liên quan đến hành vi phạm tội.

[4]. Án phí hình sự sơ thẩm: 200.000 đồng bị cáo chịu.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Sa F phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm i khoản 1, khoản 5 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt Sa F 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 14 tháng 10 năm 2020.

Phạt bị cáo số tiền 5.000.000 (năm triệu) đồng nộp ngân sách Nhà nước.

- Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong bên trong có tổng khối lượng 1,0558 gam loại MDMA và 2,1328 gam loại KetAM; 01 mũ bảo hiểm, 01 nón kết;

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 ĐTDĐ hiệu Vivo có số Imei1: 863188038799812, số Imei 2: 863188038799804;

Trả lại cho bị cáo 01 ĐTDĐ hiệu Oppo số Imei1: 865460031203839, số Imei2: 865460031203821 nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án;

Trả lại cho ông R 01 xe mô tô biển số 59N1-479XX hiệu Yamaha loại Surius có số khung: 10DY-056599, số máy: 1FC1-0566XX.

(Theo phiếu nhập kho số 04/21-PNK ngày 28/12/2020).

- Áp dụng Điều 135; 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Sa F phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Áp dụng các Điều 331; 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 44/2021/HSST ngày 03/02/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:44/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;