Bản án 44/2020/HNGĐ-ST ngày 22/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn  

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HOÁ, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 44/2020/HNGĐ-ST NGÀY 22/07/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 22 tháng 7 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 42/2019/TLST- HNGĐ ngày 20 tháng 12 năm 2019 về việc: Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 61/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 12 tháng 6 năm 2020 và QĐ hoãn phiên tòa số 47/2020/QĐST - HNGĐ ngày 25/6/2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H - Sinh năm: 1978.

Bị đơn: Anh Lê Mạnh H1 - Sinh năm: 1977.

Cùng ĐKHKTT: Phố N, phường N, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

Chỗ ở hiện nay: Đường P, phố N, phường N, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa. Tại phiên tòa hôm nay có mặt chị H, vắng mặt anh H1.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn và được bổ sung bằng lời khai cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ, nguyên đơn chị Nguyễn Thị H trình bày:

Chị và anh Lê Mạnh H1 xây dựng gia đình với nhau năm 2007, trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường N, thành phố T. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận được 03 năm, thì đến tháng 05/2010 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, mặt khác cũng do một phần phát sinh mâu thuẩn từ quan hệ giữa mẹ chồng nàng dâu. Tuy nhiên vợ chồng vẫn chung sống trong một nhà nhưng không còn tiếng nói chung trong thời gian khoảng 03 năm. Sau đó vợ chồng lại trở lại sống bình thường. Đến tháng 03/2018 vợ chồng lại phát sinh mâu thuẩn nguyên nhân là vẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm và vợ chồng sống ly thân không còn quan hệ gì về tình cảm và kinh tế. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, chị đề nghị tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Lê Mạnh H1.

- VÒ con chung: Chị H và anh H1 thống nhất vợ chồng có 02 con chung là cháu Lê Nguyễn M sinh ngày 24/5/2008 và cháu Lê Nguyễn T sinh ngày 19/8/2010, hiện nay chị đang trực tiếp nuôi cháu. Ly hôn nguyện vọng của chị xin được nuôi cả hai cháu và yêu cầu anh H1 cấp dưỡng tiền nuôi con chung mỗi tháng 2.000.000đ/1tháng/1cháu. Tại bản tự khai bổ sung ngày 06/7/2020 chị H không yêu cầu anh H1 cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

- Về tài sản, công nợ chung: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Đối với bị đơn anh Lê Mạnh H1, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án và giấy triệu tập hợp lệ và thông báo các phiên họp kiểm tra, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải để anh H1 đến Tòa án để trình bày quan điểm của mình đối với đơn khởi kiện của chị H, nhưng anh H1 đều vắng mặt không đến Tòa án để trình bày và không khai báo, gây khó khăn cho Tòa án trong việc giải quyết vụ án, do vậy Tòa án đã thu thập tài liệu và thực hiện đầy đủ các bước trình tự tố tụng đối với bị đơn cố tình không khai báo.

* Tại phiên tòa hôm nay: Chị H vẫn giữ nguyên quan điểm xin được ly hôn anh H1, xin được nuôi 2 cháu và không yêu cầu anh H1 cấp dưỡng tiền nuôi con chung, về tài sản và công nợ chung chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T phát biểu ý kiến: Về tố tụng: Toà án và đương sự đã tuân thủ đúng theo qui định của Bộ Luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết cũng như xét xử vụ án. Về đường lối: Đề nghị Tòa án chấp nhận đơn của chị H về việc xin ly hôn anh H1, chấp nhận đề nghị của chị H giao cháu Lê Nguyễn M và Lê Nguyễn T cho chị H nuôi dưỡng và anh H1 không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản và công nợ chung: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và công bố các thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị H có đơn khởi kiện ly hôn với bị đơn là anh Lê Mạnh H1. Do đó đây là vụ án ly hôn nên theo quy định tại khoản 1 Điều 28 và điểm a khoản 1 Điều 35 của BLTTDS thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Thanh Hóa thụ lý theo thủ tục sơ thẩm là đúng thủ tục tố tụng.

Về sự vắng mặt của đương sự tại phiên tòa: Anh Lê Mạnh H1 đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.

[2] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Lê Mạnh H1 kết hôn với nhau năm 2007, có đăng ký kết hôn tại UBND phường N, thành phố T là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống hòa thuận hạnh phúc được 03 năm thì phát sinh mâu thuẩn, nguyên nhân là do quan điểm cách sống của hai người không hợp, không quan tâm và có trách nhiệm đến nhau nên vợ chồng cắt đứt quan hệ tình cảm và ly thân từ tháng 03/2018 đến nay.

Sau khi thụ lý vụ án, anh H1 có nhận thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập để trình bày bản tự khai và thông báo các phiên họp kiểm tra, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải của Tòa án, nhưng các lần đều không có mặt tại Tòa theo như thời gian thông báo trong giấy, nhưng anh H1 vẫn cố tình không khai báo, vì vậy Tòa án phải lập các biên bản để có cơ sở giải quyết theo quy định của pháp luật, điều này chứng tỏ anh H1 không có thiện chí đoàn tụ.

Qua xác minh tại địa phương cho thấy vợ chồng có mâu thuẩn, còn nguyên nhân cụ thể như thế nào chính quyền địa phương không nắm được và thực tế theo chị H trình bày vợ chồng đã ly thân từ năm 2018 đến nay, chứng tỏ tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, có kéo dài cũng không đem lại hạnh phúc, nghĩ nên căn cứ vào khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Lê Mạnh H1.

[3] Về con cái: Trong quá trình Tòa án giải quyết anh H1 cố tình không có mặt tại Tòa án để trình bày quan điểm của mình về việc nuôi con và nghĩa vụ cấp dưỡng tiền nuôi con, căn cứ vào lời khai chị H và chứng cứ do chị xuất trình, anh chị có 02 con chung cháu Lê Nguyễn M sinh ngày 24/5/2008 và cháu Lê Nguyễn T sinh ngày 19/8/2010.

Xét việc giao con cho ai nuôi là căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của cháu và hiện tại hai cháu cũng đang ở với mẹ cũng có nguyện vọng xin được ở với mẹ, chị H vẫn đảm bảo tốt việc chăm sóc giáo dục, học hành của hai cháu, nghĩ nên chấp nhận yêu cầu nuôi con của chị H cũng như chấp nhận sự tự nguyện của chị H không yêu cầu anh H1 phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

[4] Về tài sản, công nợ chung: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết, nghĩ nên chấp nhận yêu cầu của chị H.

[5] Về án phí: Căn cứ Điều 6; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị H phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 271; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ khoản 1 Điều 56; Điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình.

Căn cứ vào Điều 6; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Về hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Lê Mạnh H1.

- Về con chung: Công nhận cháu Lê Nguyễn M sinh ngày 24/5/2008 và cháu Lê Nguyễn T sinh ngày 19/8/2010 là con chung của chị Nguyễn Thị H và anh Lê Mạnh H1.

Giao cháu Lê Nguyễn M và cháu Lê Nguyễn T cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng.

Chấp nhận sự tự nguyện của chị H không yêu cầu anh H1 phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Anh H1 được quyền đi lại thăm nom con chung, không ai được cản trở.

- Về tài sản, công nợ chung: Chấp nhận yêu cầu của chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về án phí: Chị H nộp 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị đã nộp 300.000đ theo biên lai thu số: AA/2017/0000643 ngày 18/12/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T (chị H đã nộp đủ án phí DSST).

Quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Chị H có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Anh H1 có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 44/2020/HNGĐ-ST ngày 22/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn  

Số hiệu:44/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;