Bản án 44/2020/HNGĐ-ST ngày 15/09/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn, nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 44/2020/HNGĐ-ST NGÀY 15/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH - LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 15 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 220/2020/TLST-HNGĐ, ngày 12 tháng 6 năm 2020 về việc“Tranh chấp về hôn nhân và gia đình - Ly hôn, nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 218/2020/QĐXXST-HNGĐ, ngày 03 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 156/2020/QĐST-HNGĐ, ngày 19 tháng 8 năm 2020, giữa:

Nguyên đơn: Đặng Thị Ngọc H, sinh năm 1995;

Đa chỉ: Tổ 1, Ấp 3, xã Mỹ T, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp; Số điện thoại: 0797 636 512;

Bị đơn: Nguyễn Hoàng P, sinh năm 1991.

Đa chỉ: Tổ 17, Ấp 4, xã Mỹ T, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp; Số điện thoại: 0915 999 140.

(Chị H có mặt, anh P vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, chị Đặng Thị Ngọc H trình bày: Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Hoàng P kết hôn năm 2012, có đăng ký kết hôn ngày 11/3/2015 tại Ủy ban nhân dân xã Mỹ Tân, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.

Thời gian chung sống vợ chồng xảy ra mâu thuẫn. Lúc đầu anh P lo làm ăn, lo cho chị nhưng về sau thì anh P không chịu lo làm ăn, suốt ngày uống rượu, theo bạn bè cờ bạc, hút chích cho dù chị khuyên ngăn. Anh P thường xuyên đi nhậu về chửi và đánh chị. Chị dẫn con về nhà mẹ ruột sinh sống thì anh Phi năn nỉ và hứa sẽ sửa chữa nên chị tha thứ cho anh P nhiều lần, hai bên gia đình cũng can thiệp khuyên ngăn nhưng anh P không thay đổi. Chị nhận thấy tình cảm giữa chị và anh P không còn, không thể hàn gắn được. Nay chị yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Hoàng P.

Về con chung: Chị H và anh Nguyễn Hoàng P có 01 con chung tên Nguyễn Ngọc Trà M, sinh ngày 19/12/2014. Hiện nay con chung đang sống chung với chị. Khi ly hôn, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, chị không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn Nguyễn Hoàng P: Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh Nguyễn Hoàng P nhưng anh P không có văn bản ghi ý kiến đối với nội dung vụ án, đồng thời không có mặt tại các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như không có mặt tại các phiên tòa xét xử của Tòa án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của chị Đặng Thị Ngọc H và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thể hiện quan hệ pháp luật tranh chấp giữa các đương sự là tranh chấp về hôn nhân và gia đình ly hôn, nuôi con. Bị đơn Nguyễn Hoàng P có địa chỉ tại tổ 17, ấp 4, xã Mỹ Tân, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng Dân sự.

Bị đơn Nguyễn Hoàng P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa nên xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung: Chị Đặng Thị Ngọc H và anh Nguyễn Hoàng P kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 11/3/2015 tại Ủy ban nhân dân xã Mỹ Tân, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp nên quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh P là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận. Tại phiên tòa, chị H trình bày sau khi kết hôn với anh P thời gian đầu vợ chồng sống chung hạnh phúc. Lúc đầu anh P lo làm ăn, lo cho chị nhưng về sau thì anh P không chịu lo làm ăn, suốt ngày uống rượu, theo bạn bè cờ bạc, hút chích cho dù chị khuyên ngăn. Anh P thường xuyên đi nhậu về chửi và đánh chị. Chị H dẫn con về nhà mẹ ruột sinh sống thì anh P năn nỉ và hứa sẽ sửa chữa nên chị H tha thứ cho anh P nhiều lần, hai bên gia đình cũng can thiệp khuyên ngăn nhưng anh P không thay đổi. Chị và anh P đã ly thân từ năm 2016 cho đến nay. Nhận thấy tình cảm giữa chị và anh P không còn và không thể hàn gắn được. Nay chị H yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Hoàng P. Đối với hành vi bạo lực gia đình của anh P, chị H không yêu cầu xử lý. Trong quá trình giải quyết vụ án, anh P không có ý kiến về quan hệ hôn nhân và vắng mặt tại phiên tòa.

Từ những nhận định trên Hội đồng xét xử xét thấy, quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh P có nhiều mâu thuẫn và ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, yêu cầu của chị H về việc xin ly hôn với anh P là phù hợp với Điều 51, Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình nên chấp nhận.

Về con chung: Chị Đặng Thị Ngọc H và anh Nguyễn Hoàng P có một con chung tên Nguyễn Ngọc Trà M, sinh ngày 19/12/2014. Hiện nay con chung đang sống chung với chị H. Chị H yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung tên Nguyễn Ngọc Trà M.

Trong quá trình giải quyết vụ án anh P không có ý kiến về con chung và vắng mặt tại phiên tòa.

Hi đồng xét xử xét thấy, anh P không có ý kiến hay yêu cầu về việc nuôi con chung, từ khi chị H và anh P không sống chung đến nay, con chung đều sống chung và gần gũi với chị H ổn định thời gian dài, phát triển tốt về mọi mặt. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị H. Tiếp tục giao con chung tên Nguyễn Ngọc Trà M, sinh ngày 19/12/2014 cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng, theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị H không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con chung tên Nguyễn Ngọc Trà M; Anh P không có ý kiến về cấp dưỡng nuôi con chung và vắng mặt tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không được quyền nuôi con chung có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Trưng hợp người không được quyền nuôi con chung lạm dụng việc thăm nom để gây cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người được quyền nuôi con chung có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không được quyền nuôi con chung. Về tài sản chung và nợ chung: Chị H trình bày vợ chồng có tài sản chung nhưng vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết, vợ chồng không có nợ ai và không ai nợ vợ chồng; Anh P không có ý kiến về tài sản chung và nợ chung và vắng mặt tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3] Về án phí: Chị Đặng Thị Ngọc H phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình ly hôn theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Anh Nguyễn Hoàng P không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình ly hôn.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng Dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Đặng Thị Ngọc H. Chị Đặng Thị Ngọc H được ly hôn với anh Nguyễn Hoàng P.

Về con chung: Chấp nhận yêu cầu của chị Đặng Thị Ngọc H. Tiếp tục giao con chung tên Nguyễn Ngọc Trà M, sinh ngày 19/12/2014 cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng, hiện con chung đang sống chung với chị H.

Về cấp dưỡng dưỡng nuôi con chung: Hội đồng xét xử không xem xét. Sau khi ly hôn, người không được quyền nuôi con chung có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Trưng hợp người không được quyền nuôi con chung lạm dụng việc thăm nom để gây cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người được quyền nuôi con chung có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không được quyền nuôi con chung. Về tài sản chung và nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: Chị Đặng Thị Ngọc H phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình ly hôn là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0004788 ngày 10/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cao Lãnh, Đồng Tháp. Chị H đã nộp xong tiền án phí dân sự.

Anh Nguyễn Hoàng P không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình ly hôn.

Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 44/2020/HNGĐ-ST ngày 15/09/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn, nuôi con

Số hiệu:44/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cao Lãnh - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;