Bản án 44/2019/HS-ST ngày 30/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BÀ RỊA, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

BẢN ÁN 44/2019/HS-ST NGÀY 30/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bà Rịa–Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 48/2019/TLST-HS ngày 17 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 47/2019/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Huỳnh Minh S; tên gọi khác: N, sinh năm 1994 tại Bà Rịa – Vũng Tàu. Hộ khẩu thường trú: phường P, thành phố B, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Thiện T và bà Trần Thanh A; Bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 27/4/2019. (Có mặt)

- Người làm chứng: Nguyễn Hữu P, sinh năm 1997; cư trú tại: xã H, thành phố B, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Dương Ngọc K, Huỳnh Minh S và Nguyễn Hữu P - có mối quan hệ bạn bè và đều nghiện ma túy. Khoảng 15 giờ ngày 04/8/2018, cả ba thuê phòng tại khách sạn G thuộc phường P, thành phố B để sử dụng ma túy. Tại đây, K đưa cho Sang 1.000.000 đồng đi mua ma túy đá để cùng nhau sử dụng dần. S liên hệ và mua ma túy của một người bạn (không rõ nhân thân, lai lịch), sau đó cả ba đến thuê nhà nghỉ tại phường L, thành phố B để sử dụng ma túy, số ma túy còn lại Sang tiếp tục cất giấu trong người. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày cả ba chuyển địa điểm đến nhà nghỉ Q (phường P, thành phố B) thuê phòng tiếp tục sử dụng ma túy. Sau đó K đi công việc đến khoảng 18 giờ 30 phút ngày 05/8/2018 thì quay lại, K nói S lấy ma túy còn lại ra để cả ba sử dụng. Số ma túy còn dư lại, Sang chia nhỏ bỏ vào 02 gói nilon và 01 đoạn ống nhựa, rồi bỏ tất cả vào vỏ thuốc Jet để ở gối nằm trên giường ngủ trong phòng. Khoảng 22 giờ, K đưa P 1.000.000 đồng nói đi mua thêm ma túy đá về sử dụng. Sau khi mua và giao lại ma túy cho K thì P bỏ đi. S chuyển qua phòng khác tại nhà nghỉ để ngủ.

Đến khoảng 02 giờ 15 phút ngày 06/8/2018, tiến hành kiểm tra phòng 204 cơ quan Công an phát hiện K đang tàng trữ lượng ma túy nêu trên do S để lại nên lập biên bản quả tang, thu giữ thêm 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, 01 căn cước công dân của K. Riêng số ma túy P vừa mua về, K khai đã sử dụng hết nên không thu giữ được.

Ti bản kết luận giám định số 239/GĐMT-PC54(Đ4) ngày 17/8/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, kết luận: Mẫu chất kết tinh không màu – trong suốt chứa trong 02 gói nylon hàn kín và trong 01 đoạn ống nhựa màu trắng – hàn kín hai đầu, đã được niêm phong gửi đến giám định có tổng khối lượng 0,2369 gam, là chất ma túy loại Methamphetamine.

Vic thu giữ và xử lý vật chứng: Đã được xử lý tại Bản án số 37/2019/HSST ngày 31/5/2019 của TAND thành phố B.

Theo khai nhận của bị cáo K: Số ma túy thu giữ là do K đưa tiền cho S mua để sử dụng chung, sau đó S tự chia nhỏ và cất giấu. Tại phiên tòa S thừa nhận sự việc trên.

Đi với các đối tượng bán ma túy cho S và P hiện chưa xác minh làm rõ được.

Tại bản cáo trạng số: 50/CT-VKSBR ngày 17/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã truy tố Huỳnh Minh S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, trên cơ sở việc xét hỏi và tranh luận công khai, dân chủ thể hiện:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 12 đến 15 tháng tù; Về xử lý vật chứng: Đã giải quyết xong; Hình phạt bổ sung: không áp dụng đối với bị cáo.

Ý kiến bị cáo: Thừa nhận hành vi phạm tội và xin hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ và đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, từ đó đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 02 giờ 15 phút ngày 06/8/2018, tại nhà nghỉ Q (tại phường P, thành phố B), Dương Ngọc K và Huỳnh Minh S có hành vi tàng trữ 0,2369 gam chất ma túy loại Methamphetamine mục đích để sử dụng dần thì bị phát hiện bắt quả tang.

Quá trình điều tra bị cáo S bỏ trốn và bị bắt giữ ngày 27/4/2019, bị cáo K đã bị xét xử theo Bản án số 37/2019/HSST ngày 31/5/2019 của TAND thành phố B.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo K thừa nhận hành vi tàng trữ ma túy với bị cáo K. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Huỳnh Minh S đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Xét tính chất, mức độ, vai trò của bị cáo S: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vì ma túy là chất độc gây nghiện ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe và nòi giống của con người, xâm phạm đến chính sách nhà nước độc quyền quản lý, gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ tác hại của ma túy nhưng với lối sống buông thả bất chấp vẫn thực hiện hành vi phạm tội.

Trong vụ án này, bị cáo K là người chưa thành niên nhưng là người đề xuất và tự chi tiền để mua ma túy về sử dụng; bị cáo S là người trực tiếp liên hệ mua, khi có ma túy chính bị cáo là người phân nhỏ cất giấu với mục đích để sử dụng dần. Vì vậy, cần thiết phải có một hình phạt tương xứng với hành vi của bị cáo đã gây ra.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Quá trình điều tra bị cáo S bỏ trốn, gây khó khăn cho quá trình giải quyết vụ án; tuy nhiên tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải nên cần vận dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xem xét khi lượng hình.

[5] Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Đã giải quyết xong.

[7] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[8] Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Huỳnh Minh S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Huỳnh Minh S 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27/4/2019.

2. Về xử lý vật chứng: Đã giải quyết xong.

3. Về án phí: Buộc bị cáo Huỳnh Minh S phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo được quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 44/2019/HS-ST ngày 30/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:44/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bà Rịa - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;