Bản án 44/2019/HS-ST ngày 09/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 44/2019/HS-ST NGÀY 09/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 4 năm 2019 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 51/2019/TLST-HS ngày 22 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 63/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Đăng K, sinh ngày 01/01/1988 tại tỉnh Tiền Giang; thường trú: Ấp T, xã H, thị xã L, tỉnh Tiền Giang; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1959 và bà Ngô Thị B, sinh năm 1959; có vợ tên Trần Thị Thái H, có 02 con sinh năm 2010 và 2013; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ ngày 03/12/2018; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 00 ngày 02/12/2018, Nguyễn Đăng K và Trần Thị Thanh T thuê phòng số 204 tại Khách sạn V; Số 5, Đường số 7, Phường 3, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh. Trong lúc T vào phòng vệ sinh, K dùng điện thoại di động có sim số 0373278952 liên lạc với một người tên T (không rõ lai lịch) qua số điện thoại 0976387050 để hỏi mua ma túy. Theo thỏa thuận, K đến ngã Sáu đường Phạm Văn Đồng thuộc Phường 3, quận Gò Vấp thì gặp một người không rõ lai lịch đi xe máy hiệu Wave. Tại đây, K nhận một gói thuốc Jet bên trong có gói nylon chứa ma túy và 01 nỏ thủy tinh rồi đưa cho người này số tiền 500.000 đồng. Trở về phòng khách sạn, trong lúc T đang tắm, K lấy ma túy vừa mua bỏ vào nỏ thủy tinh, số ma túy còn lại K để trên bàn kế bên giường. Sau đó, K và T cùng sử dụng số ma túy mà K đã bỏ vào nỏ trước đó. Đến 09 giờ 00 ngày 03/12/2018, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Gò Vấp đến kiểm tra phòng, bắt giữ K, thu giữ số ma túy mà K để trên bàn và 01 nỏ thủy tinh để sử dụng ma túy.

Bản Cáo trạng số 58/Ctr-VKS ngày 20/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố Nguyễn Đăng K tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố, trình bày lời luận tội, đánh giá tính chất, mức độ và hậu quả nguy hiểm cho xã hội cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đề nghị:

Tuyên bố bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt Nguyễn Đăng K từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; áp dụng Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 tịch thu, tiêu hủy số ma túy thu giữ của bị cáo, 01 gói chứa 02 viên nén hình tròn, màu xanh, 01 bình nhựa gắn nỏ thủy tinh và tịch thu, nộp ngân sách nhà nước chiếc điện thoại di động hiệu Samsung.

Bị cáo không tranh luận, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án khoan hồng vì đã nhận thức được hành vi sai phạm của mình và quyết tâm sửa chữa, không vi phạm pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an quận Gò Vấp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp, Kiểm sát viên thực hiện hành vi, quyết định tố tụng, thu thập chứng cứ, tài liệu theo đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình tiến hành tố tụng và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng, việc thu thập chứng cứ, tài liệu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng

[2] Về nội dung: Tại phiên toà, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Lời khai của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt quả tang, vật chứng thu giữ và tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án nên đủ cơ sở xác định: Khoảng 19 giờ ngày 02/12/2018, bị cáo và bạn là Trần Thị Thanh T đến thuê phòng của Khách sạn V tại Số 5, Đường số 7, Phường 3, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh. Trong lúc T vào phòng vệ sinh, bị cáo gọi điện thoại cho một người (không rõ lai lịch) để hỏi mua ma túy và đi một mình đến nơi hẹn tại khu vực ngã Sáu đường Phạm Văn Đồng thuộc Phường 3, quận Gò Vấp để trả 500.000 đồng, rồi nhận một bao thuốc Jet bên trong có gói nylon chứa ma túy và 01 nỏ thủy tinh. Bị cáo quay trở về phòng khách sạn lấy một ít ma túy bỏ vào nỏ thủy tinh để cùng với T sử dụng, số ma túy còn lại bị cáo để trên bàn kế bên giường ngủ. Đến 09 giờ 00 ngày 03/12/2018, lực lượng cảnh sát đến kiểm tra phòng thì phát hiện gói nylon để trên bàn nghi vấn là ma túy nên đã bắt giữ bị cáo.

Kết luận giám định số 124/KLGĐ-H ngày 07 tháng 12 năm 2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh đối với 02 gói niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Nguyễn Đăng K và hình dấu Công an Phường 3, quận Gò Vấp như sau: Gói 1: Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m1 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,2677g (không phẩy hai sáu bảy bảy gam), loại Methamphetamine; Gói 2: Viên nén hình tròn, màu xanh, được ký hiệu mẫu m2 cần giám định có khối lượng 0,5918 (không phẩy năm chín một tám gam) không tìm thấy ma túy. Do đó, hành vi của Nguyễn Đăng K đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến hoạt động quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Bản thân bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi phạm tội nghiêm trọng. Vì vậy, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[3] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ hình phạt.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử không áp dụng khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Số ma túy thu giữ của bị cáo là vật cấm tàng trữ, lưu hành, gói chứa 02 viên nén hình tròn, màu xanh là vật không có giá trị, 01 bình nhựa gắn nỏ thủy tinh là công cụ phạm tội nên tịch thu, tiêu hủy, còn chiếc điện thoại di động hiệu Samsung là phương tiện phạm tội nên tịch thu, nộp ngân sách nhà nước theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[6] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố Nguyễn Đăng K phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, Xử phạt Nguyễn Đăng K 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03 tháng 12 năm 2018.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1, khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, tịch thu, tiêu huỷ: 01 gói bên trong chứa tinh thể không màu qua giám định là ma túy và 01 gói bên trong có 02 viên nén hình tròn, màu xanh được niêm phong có chữ ký của giám định viên và cán bộ điều tra sau giám định, 01 bình nhựa gắn nỏ thủy tinh, tịch thu, nộp ngân sách nhà nước chiếc điện thoại di động hiệu Samsung. (Theo Lệnh nhập kho vật chứng số 35/LNKVC ngày 20/3/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng, nộp tại cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng các điều 331 và 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

295
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 44/2019/HS-ST ngày 09/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:44/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;