TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH LÀO CAI
BẢN ÁN 44/2019/HNGĐ-ST NGÀY 26/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI DƯỠNG CON CHUNG KHI LY HÔN
Ngày 26 tháng 11 năm 2019. Tại trụ sở Toà án nhân dân huyện B, tỉnh Lào Cai tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 268/2019/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 9 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi dưỡng con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 45/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 11 năm 2019 và quyết định hoãn phiên tòa số 26/2019/QĐST-HNGĐ ngày 21/11/2019 giữa các đương sự:
1- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị X.
Địa chỉ: Thôn C, xã X, huyện B, tỉnh Lào Cai-Có mặt tại phiên tòa.
2- Bị đơn: Anh Anh Hồ Đức V.
Đăng ký hộ khẩu thường trú: Xóm 2, xã Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An.
Đăng ký tạm trú: Thôn C, xã X, huyện B, tỉnh Lào Cai – Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 25/9/2019 và các bản tự khai của chị Vũ Thị X và anh Hồ Đức V cùng toàn bộ tài liệu chứng cứ đã có trong hồ sơ vụ án thì chị Vũ Thị X và anh Hồ Đức V kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại ủy ban nhân dân xã P, huyện B, tỉnh Lào Cai vào ngày 15/12/2014. Sau ngày kết hôn, vợ chồng về chung sống, hoà thuận hạnh phúc, đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chính là do bất đồng quan điểm trong làm ăn và tạo dựng cuộc sống gia đình và nuôi dậy con cái. Mặt khác anh Hồ Đức V chơi bời cờ bạc, chị tham gia khuyên bảo nhưng anh không nghe dẫn đến việc anh Hồ Đức V đánh chị, cuộc sống vợ chồng thường xuyên sẩy ra bất hòa, cãi chửi lẫn nhau, thiếu sự tôn trọng đối với bản thân và đôi bên gia đình. Khi mâu thuẫn sảy ra vợ chồng đã được gia đình, anh em khuyên giải nhiều lần nhưng đều không có kết quả. Thực tế vợ chồng không còn quan tâm thăm hỏi gì nhau và cũng không có trách nhiệm gì với nhau nữa.
Đến nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị Vũ Thị X có yêu cầu và nguyện vọng xin được ly hôn với anh Hồ Đức V.
Đối với anh Hồ Đức V trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bản thân anh đã có bản tự khai và anh cũng thừa nhận mâu thuẫn của vợ chồng là do quan điểm, cách sống của vợ chồng không thống nhất với nhau trong việc làm ăn, phát triển kinh tế gia đình và nuôi dậy con cái. Đến nay chị Vũ Thị X xin ly hôn, anh cũng nhất trí ly hôn với chị Vũ Thị X với lý do tình cảm vợ chồng không còn khả năng khắc phục mâu thuẫn.
Về con chung:
Chị Vũ Thị X và anh Hồ Đức V đều xác nhận anh, chị chung sống với nhau đến nay đã có 01 con chung. Cháu Hồ Minh Đ-Sinh ngày: 17/7/2015.
Hiện nay cháu Hồ Minh Đ khỏe mạnh, phát triển bình thường và hiện tại cháu đang ở cùng với chị Vũ Thị X tại Thôn C, xã X, huyện B, tỉnh Lào Cai. Khi ly hôn chị Vũ Thị X và anh Hồ Đức V đều có yêu cầu và nguyện vọng xin được nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục cháu Hồ Minh Đ cho đến khi cháu trưởng thành đủ 18 tuổi. Không bên nào yêu cầu cấp dưỡng tiền nuôi con chung.
Về tài sản chung:
Chị Vũ Thị X và anh Hồ Đức V đều xác nhận trong thời gian chung sống anh, chị có tạo dựng được một số tài sản gì chung, nhưng khi ky hôn anh, chị tự thỏa thuận chia và không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về công nợ chung:
Chị Vũ Thị X và anh Hồ Đức V đều xác nhận trong thời gian chung sống anh, chị có vay của bà Nguyễn Thị Trang là mẹ đẻ chị Vũ Thị X số tiền 40.000.000đ không lãi. Đến nay chị Vũ Thị X và anh Hồ Đức V tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm vấn công khai tại phiên tòa. Hội đồng xét xử xét thấy:
[1]. Về quan hệ hôn nhân:
Chị Vũ Thị X và anh Hồ Đức V kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện B, tỉnh Lào Cai vào ngày 15/12/2014. Đây là một hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ.
Sau ngày kết hôn vợ chồng về chung sống hoà thuận hạnh phúc, đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chính dẫn đến việc chị Vũ Thị X làm đơn xin ly hôn anh Hồ Đức V là do quan điểm, cách sống của vợ chồng không thống nhất với nhau trong việc làm ăn, phát triển kinh tế gia đình và nuôi dậy con cái, từ đó vợ chồng thường xuyên sẩy ra cãi chửi lẫn nhau, thiếu sự tôn trọng đối với bản thân và đôi bên gia đình. Khi sảy ra mâu thuẫn anh, chị đã được hai bên gia đình, anh em bạn bè tham gia khuyên giải nhưng đều không kết quả. Mặt khác anh, chị đã tự sống ly thân nhau từ tháng 9/2019 cho đến nay. Trong thời gian này vợ chồng không quan tâm, thăm hỏi gì đến nhau và cũng không có trách nhiệm gì với nhau nữa.
Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn ngày 25/9/2019 chị Vũ Thị X làm đơn khởi kiện xin được ly hôn với anh Hồ Đức V.
Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay bản thân anh Hồ Đức V cũng xác nhận mâu thuẫn của vợ chồng là do quan điểm, cách sống của vợ chồng không thống nhất với nhau trong việc làm ăn, phát triển kinh tế gia đình và nuôi dậy con cái. Đến nay chị Vũ Thị X xin ly hôn anh cũng nhất trí ly hôn với lý do tình cảm vợ chồng không còn.
Tại phiên tòa hôm nay xét yêu cầu của chị Vũ Thị X và anh Hồ Đức V đều có yêu cầu và nguyện vọng xin được ly hôn với lý do mâu thuẫn đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Nên Hội đồng xét xử cần nhận yêu cầu của chị Vũ Thị X và anh Hồ Đức V là có căn cứ phù hợp với Điều 55 Luật hôn nhân gia đình Việt Nam.
[2] Về con chung:
Chị Vũ Thị X và anh Hồ Đức V đều xác nhận anh, chị chung sống với nhau đến nay đã có 01 con chung. Cháu Hồ Minh Đ-Sinh ngày: 17/7/2015; Hiện nay cháu Hồ Minh Đ khỏe mạnh phát triển bình thường và hiện tại cháu đang ở cùng với chị tại Thôn C, xã X, huyện B, tỉnh Lào Cai. Khi ly hôn chị Vũ Thị X và anh Hồ Đức V đều có yêu cầu và nguyện vọng xin được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Hồ Minh Đ cho đến khi cháu trưởng thành đủ 18 tuổi. Không bên nào yêu cầu cấp dưỡng tiền nuôi con chung.
Xét yêu cầu của chị Vũ Thị X về việc nuôi dưỡng con chung là có căn cứ. Bởi lẽ bản thân anh, chị đều có mức thu nhập ổn định và đều có khả năng nuôi dưỡng cháu Hồ Minh Đ, Nhưng để đảm bảo việc chăm sóc, nuôi dưỡng con, đảm bảo sự ổn định cho cháu về tâm lý cũng như trong sinh hoạt và quyền lợi về mọi mặt của cháu nhỏ Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu của chị Vũ Thị X về việc nuôi dưỡng con chung và giao cháu Hồ Minh Đ cho chị Vũ Thị X trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục là phù hợp với các Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam.
[3] Về tài sản chung:
Tại phiên tòa và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì chị Vũ Thị X và anh Hồ Đức V đều xác nhận trong thời gian chung sống anh, chị có tạo dựng được một số tài sản chung, khi ly hôn anh chị tự thỏa thuận chia, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[4] Về công nợ chung:
Tại phiên tòa chị Vũ Thị X và anh Hồ Đức V đều xác nhận trong thời gian chung sống anh chị có vay của bà Nguyễn Thị Trang (Là mẹ đẻ chị Vũ Thị X) số tiền 40.000.000đ (Bốn mươi triệu đồng). Khi ly hôn anh, chị tự giải quyết, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Đối với vụ án này trong quá trình giải quyết vụ án anh Hồ Đức V đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật để tòa án tiến hành hòa giải cho các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án nhưng anh Hồ Đức V không chấp hành theo yêu cầu của Tòa án, vắng mặt không có lý do, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án. Do vậy vụ án này Tòa án không tiến hành hòa giải được.
[5]. Về án phí:
Đương sự phải chịu án phí theo qui định của pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 55; Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
1.Về quan hệ hôn nhân: Xử công nhận sự thuận tịnh ly hôn giữa chị Vũ Thị X và anh Hồ Đức V.
2.Về con chung: Xử giao cháu Hồ Minh Đ-Sinh ngày: 17/7/2015 cho chị Vũ Thị X trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu Hồ Minh Đ trưởng thành đủ 18 tuổi. Anh Hồ Đức V không phải cấp dưỡng tiền nuôi dưỡng con chung.
Sau khi ly hôn, anh Hồ Đức V có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.
3.Về án phí: Chị Vũ Thị X phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số: 0000198 ngày 27/9/2019 tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện B.
Xác nhận chị Vũ Thị X đã nộp đủ tiền án phí Dân sự sơ thẩm.
Án xử công khai sơ thẩm, báo cho nguyên đơn, bị đơn biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án quyết định được thi hành theo qui định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 44/2019/HNGĐ-ST ngày 26/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi dưỡng con chung khi ly hôn
Số hiệu: | 44/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bảo Thắng - Lào Cai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 26/11/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về