Bản án 44/2019/HNGĐ-ST ngày 24/10/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 44/2019/HNGĐ-ST NGÀY 24/10/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 08 tháng 10 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 426/2019/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 7 năm 2019 về tranh chấp “Hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 783/2019/QĐXX-ST ngày 20 tháng 9 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 459/2019/QĐST-HNGĐ ngày 08 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Hà Thị Bích H - Sinh năm 1993

Địa chỉ: Khu 1, xã T, huyện T, tỉnh Phú Thọ. (Có mặt)

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Thế V - Sinh năm 1988.

Địa chỉ: Tổ 6, khu 1B, phường V, thành phố V, tỉnh Phú Thọ. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và các lời khai tiếp theo củachị Hà Thị Bích H trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh Nguyễn Thế V đăng ký kết hôn ngày 14/7/2015 tại UBND phường V, thành phố V, tỉnh Phú Thọ. Trước kết hôn hai bên được tự nguyện tìm hiểu, không ai bị ép buộc gì, được hai bên gia đình tổ chức cưới theo phong tục. Sau khi kết hôn, vợ chống sống tại nhà bố mẹ anh V tại tổ 6, khu 1B, phường V, thành phố V, tỉnh Phú Thọ. Tình cảm vợ chồng H phúc được đến cuối năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chủ yếu do anh V thường xuyên vắng nhà, không quan tâm đến vợ con, anh V ghen tuông đã đánh chị H, chị H đã báo Công an phường V giải quyết, sau đó vợ chồng chị H và anh V về ở với nhau nhưng tình cảm vợ chồng không cải thiện mà thường xuyên sảy ra cãi nhau. Chị H đã chuyển về nhà bố mẹ đẻ ở và vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay, không ai quan tâm đến ai nữa. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh V.

Về con chung: Chị H trình bày vợ chồng có 01 con chung là cháu Nguyễn Hà Linh Đ - Sinh ngày 14/12/2015. Hiện nay cháu Đ đang sống cùng chị H. Khi ly hôn chị H xin được nuôi con chung và không đề nghị anh V phải đóng góp nuôi con chung.

Về tài sản chung, công nợ, công sức đóng góp: Chị H trình bày vợ chồng không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là anh Nguyễn Thế V vắng mặt tại phiên tòa nhưng tại bản tự khai và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án anh Nguyễn Thế V trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh Nguyễn Thế V đăng ký kết hôn ngày 14/7/2015 tại UBND phường V, thành phố V, tỉnh Phú Thọ. Trước kết hôn hai bên được tự nguyện tìm hiểu, không ai bị ép buộc gì, được hai bên gia đình tổ chức cưới theo phong tục. Sau khi kết hôn, vợ chống sống tại nhà bố mẹ anh V tại tổ 6, khu 1B, phường V, thành phố V, tỉnh Phú Thọ. Quá trình chung sống hòa thuận H phúc đến cuối năm 2018 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng sống không hợp nhau, quan điểm sống khác nhau nên sảy ra xô sát cãi nhau, anh V đã đánh chị H nên chị H có báo Công An. Việc mâu thuẫn của vợ chồng gia đình hai bên cũng đã dàn xếp, chính quyền địa phương chưa hòa giải. Sau khi chị H báo Công an vợ chồng về với nhau được một thời gian thì chồng lại sảy ra xô sát cãi nhau, chị H bỏ về nhà đẻ ở và vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay. Nay anh V xét thấy tình cảm vợ chồng giữa anh và chị H vẫn còn, anh V xin đoàn tụ, nếu chị H kiên quyết xin ly hôn anh nhất trí nhưng chị H phải để anh V nuôi con.

- Về con chung: Anh V trình bày vợ chồng có 01 con chung là cháu Nguyễn Hà Linh Đ - Sinh ngày 14/12/2015. Khi ly hôn anh V xin được nuôi con chung và không đề nghị chị H phải đóng góp nuôi con chung.

- Về tài sản chung, công nợ, công sức đóng góp: Anh V xác định vợ chồng không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, tỉnh Phú Thọ tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử được thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

-Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự Về nội dung vụ án:

- Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Hà Thị Bích H: Xử cho chị H được ly hôn với anh Nguyễn Thế V.

- Về con chung: Giao cho chị H được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là Nguyễn Hà Linh Đ - Sinh ngày 14/12/2015. Anh V không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị H do chị H không yêu cầu.

- Về tài sản chung, công nợ, công sức đóng góp: Chị H và anh V xác định không có, không đề nghị Tòa án giải quyết.

- Về án phí: Chị H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng:

Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn, bị đơn vắng mặt. Đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Do bị đơn có nơi cư trú tại thành phố V, tỉnh Phú Thọ nên Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Phú Thọ thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân. Tại phiên tòa hôm nay, anh V đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là anh Nguyễn Thế V.

[2]. Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Hà Thị Bích H và anh Nguyễn Thế V đăng ký kết hôn ngày 14/7/2015 tại UBND phường V, thành phố V, tỉnh Phú Thọ trước khi kết hôn được tìm hiểu tự nguyện không ai bị ép buộc. Đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Quá trình vợ chồng không được hòa thuận H phúc, thường xuyên sảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng sống không hợp nhau, quan điểm và cách sống khác nhau, có lần anh V đã đánh chị H và chị H đã báo Công an phường V giải quyết, sau đó vợ chồng lại về chung sống với nhau nhưng tình cảm vợ chồng vẫn không cải thiện được mà thường xuyên xảy ra cãi nhau, chị H đã về nhà bố mẹ đẻ ở và vợ chồng sống ly thân từ đó. Qua xác minh tại chính quyền địa phương cũng khẳng định chị H và anh V có mâu thuẫn, chính quyền địa phương và gia đình có dàn xếp nhưng tình cảm vợ chồng không cải thiện được, quan điểm của chính quyền địa phương đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật. Xét thấy cuộc sống chung giữa chị H và anh V không có H phúc, mâu thuẫn đã ở mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy cần xử cho chị H được ly hôn anh V là phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

- Về con chung: Chị H và anh V xác định vợ chồng có 01 con chung là cháu Nguyễn Hà Linh Đ - Sinh ngày 14/12/2015. Chị H và anh V đều xin được nuôi con chung và không đề nghị bên còn lại đóng góp nuôi con chung.

Xét về nguyện vọng xin được nuôi con của hai bên là chính đáng, cả chị H và anh V đều có thu nhập ổn định, chị H hiện nay đang làm tại Công ty cổ phần Thái Lan P - chi nhánh Miền Bắc thu nhập hàng tháng là 13.800.000đ/tháng, còn anh V hiện nay đang làm tại Công ty TNHH một thành viên dịch vụ bảo vệ an ninh Thịnh Trường thu nhập hàng tháng là 9.053.486đ/tháng. Hiện nay cháu Đ đang ở với chị H và cháu Đ còn nhỏ, cần sự chăm sóc trực tiếp của người mẹ nhiều hơn. Nên cần giao con chung là cháu Nguyễn Hà Linh Đ - Sinh ngày 14/12/2015 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp, anh V không phải đóng góp nuôi con chung cùng chị H vì chị H không yêu cầu.

- Về tài sản chung, công nợ chung, công sức đóng góp: Chị H và anh V đều xác định không có, không đề nghị Tòa án giải quyết.

[5] Về án phí: Chị H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Các Điều 51, khoản 1 Đều 56, Điều 58, 81,82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

1. Xử: Cho chị Hà Thị Bích H được ly hôn với anh Nguyễn Thế V.

2. Về con chung: Giao cho chị Hà Thị Bích H được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là cháu Nguyễn Hà Linh Đ - Sinh ngày 14/12/2015. Anh V không phải cấp dưỡng nuôi con chung vì chị H không yêu cầu.

Hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung, không ai được ngăn cản quyền gặp gỡ và chăm sóc con chung.

3. Về tài sản chung, công nợ chung, công sức đóng góp: Chị H và anh V xác định không có, không đề nghị Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Chị Hà Thị Bích H phải chịu 300.000đ(Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm. Xác nhận chị H đã nộp 300.000 đ (Ba trăm nghìn đồng) Tại biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2019/0000329 ngày 26/7/2029 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Việt Trì.

Đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 44/2019/HNGĐ-ST ngày 24/10/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:44/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Việt Trì - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;