TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 44/2018/HNGĐ-PT NGÀY 03/10/2018 VỀ TRUY NHẬN CHA CHO CON VÀ YÊU CẦU BỒI THƯỜNG TIỀN CÔNG NUÔI DƯỠNG
Ngày 03 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 43/2018/TLPT-HNGĐ ngày 13 tháng 8 năm 2018 về việc “truy nhận cha cho con và yêu cầu bồi thường tiền công nuôi dưỡng”.
Do bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 85/2018/HNGĐ-ST ngày 11 tháng 7 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện U Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 218/2018/QĐ-PT ngày27 tháng 8 năm 2018, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: 1. Bà Nguyễn Thị Út B (có mặt);
2. Ông Lê Hoàng V (vắng mặt).
Cùng địa chỉ: ấp 7, xã K, huyện U, tỉnh Cà Mau.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Nguyễn Thị Út B: Ông Nguyễn Thanh Đ (có mặt)
- Bị đơn: Ông Nguyễn Minh C (xin vắng mặt).
Địa chỉ: ấp 7, xã K, huyện U, tỉnh Cà Mau.
- Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị Út B – Nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Bà Nguyễn Thị Út B trình bày: Vào năm 1994 bà có nhờ ông Nguyễn Minh C (thời điểm đó làm công an ấp) giải quyết việc bà đòi tiền bán heo, lúc đó ông C ép buộc bà cho quan hệ tình dục thì mới giúp. Sau khi quan hệ thì bà có thai, sinh được 01 con trai, bà đặt tên là Lê Hoàng V, sinh năm 1995. Lúc đó bà giao con cho ông C nhưng ông C không nhận. Nay bà yêu cầu ông C bồi hoàn công bà nuôi dưỡng Lê Hoàng V 18 năm (216 tháng), mỗi tháng 600.000 đồng, tổng số tiền là129.600.000 đồng.
Anh Lê Hoàng V trình bày: Anh yêu cầu Tòa án truy nhận ông C là cha của anh, ngoài ra anh không yêu cầu gì thêm.
Ông Nguyễn Minh C trình bày: Ông thừa nhận vào năm 1994 ông có quan hệ tình dục lén lút với bà Nguyễn Thị Út B và anh Lê Hoàng V là con ruột của ông. Đối với yêu cầu bồi hoàn tiền công nuôi dưỡng thì ông không đồng ý, bởi vì hiện nay Lê Hoàng V đã trưởng thành và đã đi làm tạo ra thu nhập nuôi sống bản thân. Ông chỉ đồng ý hỗ trợ cho bà Út B số tiền 20.000.000 đồng trong thời gian bà Út B nuôi Lê Hoàng V.
Tại biên bản làm việc ngày 06/6/2018, ông Lê Văn R trình bày: Ông là chồng của bà B, trong thời gian năm 1994 đến năm 1995 thì ông đi làm ăn xa không có ở nhà, thời gian này vợ ông sinh con đặt tên là Lê Hoàng V, tuy giấy khai sinh của Lê Hoàng V mang họ ông, ông đứng tên là cha ruột của V nhưng thực tế V không phải là con ruột của ông. Nay ông không có yêu cầu gì, ông đề nghị Tòa án giải quyết vụ án đúng theo quy định của pháp luật. Đồng thời ông đề nghị Tòa án không đưa ông vào tham gia tố tụng trong vụ án.
Tại bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 85/2018/HNGĐ-ST ngày 11 tháng 7 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện U Minh đã quyết định:
1. Về quan hệ cha con: Ghi nhận sự thỏa thuận của anh Lê Hoàng V và ông Nguyễn Minh C là quan hệ cha con với nhau.
2. Về yêu cầu bồi thường tiền công nuôi dưỡng: Không chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị Út B về việc yêu cầu ông Nguyễn Minh C bồi thường tiền công nuôi dưỡng với số tiền 129.600.000 đồng.
3. Ghi nhận sự tự nguyện của ông Nguyễn Minh C về việc hỗ trợ cho bà Nguyễn Thị Út B chi phí nuôi con với số tiền 20.000.000 đồng.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về trường hợp thi hành án, án phí và quyền kháng cáo theo quy định.
Ngày 18/7/2018, bà Nguyễn Thị Út B có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm, buộc ông Nguyễn Minh C phải bồi thường trợ cấp nuôi con số tiền là 129.000.000 đồng.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Nguyễn Thị Út B giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên tòa phát biểuvề việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử là đúng pháp luật tố tụng dân sự, đề nghị căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị Út B, giữ nguyên bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm của TAND huyện U Minh.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Xét kháng cáo của nguyên đơn, Hội đồng xét xử thấy rằng:
Việc ông Nguyễn Minh C và bà Nguyễn Thị Út B có quan hệ dẫn đến việc bà B có thai và sinh ra anh Lê Hoàng V đều được các bên đương sự thừa nhận.
Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình thì cha, mẹ có nghĩa vụ nuôi dưỡng con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động. Do hiện nay anh V đã thành niên, có khả năng lao động nên không xem xét buộc ông C phải thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng.
Tuy khi bà B mang thai và sinh anh V, ông C không thừa nhận và không cùng nuôi dưỡng nhưng với tư cách là mẹ ruột của anh V, bà B phải có nghĩa vụ trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc anh V. Việc nuôi dưỡng con là nghĩa vụ thiêng liêng của người mẹ, không nên đo đếm bằng tiền và việc bỏ công sức, tiền bạc để nuôi con không phải là thiệt hại nên không thể yêu cầu bồi thường tiền công nuôi dưỡng.
Do đó, việc bà B kháng cáo yêu cầu ông Nguyễn Minh C bồi thường tiền công nuôi dưỡng với số tiền 129.600.000 đồng là không có cơ sở chấp nhận
[2] Tuy nhiên, ông C hiện đã thừa nhận V là con, ông cũng đã ý thức được trách nhiệm của mình, tự nguyện hỗ trợ cho bà B một phần chi phí nuôi anh V với số tiền 20.000.000 đồng, cấp sơ thẩm ghi nhận là phù hợp.
[3] Do yêu cầu kháng cáo của bà B không được chấp nhận nên bà B phải chịu án phí phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Nguyễn Thị Út B.
Giữ nguyên bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 85/2018/HNGĐ-STngày 11/7/2018 của Tòa án nhân dân huyện U Minh.
Tuyên xử:
Không chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị Út B yêu cầu ông NguyễnMinh C bồi thường tiền công nuôi dưỡng với số tiền 129.600.000 đồng.
Ghi nhận sự tự nguyện của ông Nguyễn Minh C về việc hỗ trợ cho bàNguyễn Thị Út B chi phí nuôi con với số tiền 20.000.000 đồng.
Về án phí:
Án phí hôn nhân gia đình ông Nguyễn Minh C phải nộp 300.000 đồng. Anh Lê Hoàng V không phải nộp án phí, ngày 07/6/2018 anh V đã nộp tạm ứng án phí số tiền 300.000 đồng theo biên lai thu số 0012018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện U, tỉnh Cà Mau được nhận lại.
Án phí dân sự có giá ngạch bà Nguyễn Thị Út B phải nộp số tiền 6.480.000 đồng, ngày 06/11/2017 bà B đã nộp tạm ứng án phí số tiền 3.240.000 đồng theo biên lai thu số 0011666 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện U, tỉnh Cà Mau được đối trừ, bà Út B có nghĩa vụ nộp tiếp số tiền 3.240.000 đồng.
Án phí phúc thẩm bà Nguyễn Thị Út B phải chịu 300.000 đồng. Ngày 18/7/2018, bà B đã dự nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0012107 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện U được chuyển thu.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 44/2018/HNGĐ-PT ngày 03/10/2018 về truy nhận cha cho con và yêu cầu bồi thường tiền công nuôi dưỡng
Số hiệu: | 44/2018/HNGĐ-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 03/10/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về