Bản án 44/2017/DS-ST ngày 21/09/2017 về tranh chấp hụi

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 44/2017/DS-ST NGÀY 21/09/2017 VỀ TRANH CHẤP HỤI

Trong ngày 21 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án thụ lý số 102/2017/TLST-DS ngày 04/7/2017 về việc “tranh chấp hụi”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2017/QĐXXST-DS ngày 21 tháng 8 năm 2017 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Tr, sinh năm 1978; Địa chỉ: Ấp T1, xã T2, huyện T, tỉnh Long An.

* Bị đơn:

1. Ông Phạm Thanh H, sinh năm 1972

2. Bà Đỗ Thị K, sinh năm 1972;

Cùng địa chỉ: Ấp T1, xã T2, huyện T, tỉnh Long An.

(Bà Tr có mặt; bà K và ông H vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Tr: Trong đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án bà Nguyễn Thị Tr xác định bà Tr khởi kiện yêu cầu ông Phạm Thanh H và và Đỗ Thị K phải liên đới trả cho bà Tr số tiền nợ hụi là 25.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi, yêu cầu ông H và bà K phải trả một lần.

Yêu cầu, đề nghị của ông Phạm Thanh H: Ông H thống nhất là vợ chồng ông H và bà K còn nợ bà Tr số tiền 25.000.000 đồng, ông H đồng ý trả số tiền nợ trên và xin trả dần mỗi tháng 3.000.000 đồng cho đến khi hoàn tất số nợ.

Bà Đỗ Thị K đã được Tòa án huyện T triệu tập hợp lệ đúng quy định của pháp luật nhưng bà K vắng mặt không có lý do và không có ý kiến hay văn bản đề nghị

Các tình tiết của vụ án:

Những nội dung các đương sự thống nhất được: Bà Nguyễn Thị Tr và ông Phạm Thanh H thống nhất, ông H và bà K có tham gia một dây hụi do bà Tr làm chủ hụi, hụi khui ngày 10/9/2014 âl, hụi gồm 34 phần, mỗi phần 1.000.000 đồng, mỗi tháng khui một lần, ông H và bà K tham gia 01 phần. Vào kỳ thứ 08 ông H và K có bỏ thăm 300.000 đồng và được hốt hụi, số tiền hốt hụi sau khi đã trừ tiền hoa hồng là 25.500.000 đồng. Sau khi hốt hụi thì từ kỳ thứ 9, ông H và bà K không đóng hụi chết cho bà Tr. Bà Tr đã choàng hụi chết cho ông H và bà K tổng cộng 25 kỳ hụi từ ngày 10/4/2015 (kỳ 9) đến ngày 10/5/2017 (kỳ 33) với số tiền là 25.000.000 đồng. Hụi mãn vào ngày 10/6/2017 âl.

Các tài liệu, chứng cứ do các đương sự cung cấp như tại biên bản phiên họp kiểm tra về việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ của Tòa án nhân dân huyện T.

Những nội dung các đương sự không thống nhất được: Bà Tr yêu cầu ông H và bà K phải liên đới trả số tiền nợ hụi 25.000.000 đồng, yêu cầu trả một lần. Bà Tr xác định ông H và bà K còn nợ lại thêm một kỳ hụi, bà Tr không yêu cầu giải quyết trong vụ án này. Ông H xin trả dần mỗi tháng 3.000.000 đồng cho đến khi hoàn tất số nợ. Bà K vắng mặt nên không trình bày ý kiến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu toàn bộ tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Quan hệ pháp luật là “hụi” được quy định tại Bộ luật dân sự, ông H và bà K sinh sống tại xã T2, huyện T, tỉnh Long An nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về việc giải quyết vắng mặt ông Phạm Thanh H và bà Đỗ Thị K: Ông H và bà K đã được Tòa án triệu tập hợp lệ theo quy định của pháp luật nhưng vẫn cố tình vắng mặt nên căn cứ vào Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt ông H và bà K.

[3] Về nội dung vụ án: Bà Nguyễn Thị Tr khởi kiện yêu cầu ông Phạm Thanh H và bà Đỗ Thị K phải liên đới trả số tiền 25.000.000 đồng nợ hụi của 25 kỳ hụi vi phạm tính từ kỳ thứ 9 đến kỳ thứ 33, không yêu cầu tính lãi. Ông Phạm Thanh H thừa nhận ông H và bà K có tham gia dây hụi do bà Tr làm chủ hụi và còn nợ tiền hụi chết như bà Tr trình bày. Đối với yêu cầu khởi kiện của bà Tr thì ông H đồng ý liên đới cùng bà K trả nợ cho bà Tr số tiền hụi chết của 25 kỳ hụi là 25.000.000đ. Bị đơn bà Đỗ Thị K không có ý kiến hay văn bản nào phản đối yêu cầu của bà Tr và lời trình bày của ông H nên căn cứ vào khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự thì yêu cầu khởi kiện của bà Tr có cơ sở chấp nhận.

Về trách nhiệm trả nợ, bà Tr yêu cầu ông H và bà K có nghĩa vụ liên đới trả số tiền 25.000.000 đồng. Ông H đồng ý cùng bà K liên đới trả nợ cho bà Tr. Xét thấy, ông H và bà K là vợ chồng hợp pháp, số tiền hốt hụi được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình nên đây là khoản nợ chung của ông H và bà K. Do đó, bà K phải có trách nhiệm cùng ông H liên đới trả nợ chung.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Tr đối với ông Phạm Thanh H và bà Đỗ Thị K về tranh chấp hụi. Buộc ông Phạm Thanh H và bà Đỗ Thị K có nghĩa vụ liên đới trả cho bà Nguyễn Thị Tr số tiền 25.000.000 đồng.

[4]  Về thời gian trả và cách thức trả: Ông H xin trả dần mỗi tháng 3.000.000đ cho đến khi hoàn tất số nợ vì hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn nhưng không được phía nguyên đơn đồng ý. Do các đương sự không thỏa thuận được thời gian và cách thức trả và vấn đề này thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan Thi hành án dân sự khi bản án có hiệu lực pháp luật, do đó Tòa án không xem xét giải quyết trong vụ án này.

[5] Về án phí: Ông Phạm Thanh H và bà Đỗ Thị K phải liên đới chịu số tiền 1.250.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm sung vào công quỹ nhà nước. Bà Nguyễn Thị Tr không phải chịu án phí, hoàn trả cho bà Tr số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 26, 35, 39 và Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng theo các Điều 471, 288, 357 và Điều 468 của Bộ luật dân sự và theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Tr đối với ông Phạm Thanh H và bà Đỗ Thị K về tranh chấp hụi. Buộc ông Phạm Thanh H và bà Đỗ Thị K có nghĩa vụ liên đới trả cho bà Nguyễn Thị Tr số tiền 25.000.000đồng (hai mươi lăm triệu đồng).

Trong trường hợp ông Phạm Thanh H và Đỗ Thị K chậm trả thì ông H, bà K còn phải liên đới trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Mức lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự.

2. Về án phí:

Ông Phạm Thanh H và bà Đỗ Thị K phải liên đới chịu số tiền 1.250.000 đồng (một triệu hai trăm năm mươi ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm sung vào công quỹ nhà nước.

Bà Nguyễn Thị Tr không phải chịu án phí, hoàn trả cho bà Tr số tiền 625.000đ (sáu trăm hai mươi lăm ngàn đồng) tạm ứng án phí mà bà Tr đã nộp theo biên lai thu số 0003628 ngày 04 tháng 7 năm 2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T.

3. Về kháng cáo: Bà Tr có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Ông H và bà K có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc Tòa án niêm yết bản án.

4. Về việc thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

690
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 44/2017/DS-ST ngày 21/09/2017 về tranh chấp hụi

Số hiệu:44/2017/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Trụ - Long An
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 21/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;