TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 439/2020/HSPT NGÀY 15/09/2020 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 15 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 240/2020/TLPT-HS ngày 24 tháng 3 năm 2020 do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Ngọc H đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2020/HS-ST ngày 10/02/2020 của Tòa án nhân dân thành phố H.
Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Ngọc H, sinh ngày 15 tháng 02 năm 1972; nơi cư trú tại Tổ Đ, phường Đ, Quận N, thành phố H; nghề nghiệp: công nhân; trình độ văn hóa phổ thông: 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; con ông Nguyễn Ngọc T (đã chết) và bà Lê Thị Đ; vợ là Hoàng Thị Việt N và có 02 con; tiền án, tiền sự: không; bị cáo ra đầu thú sau đó bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/4/2019; có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa:
Bào chữa bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bị cáo Nguyễn Ngọc H tại phiên tòa phúc thẩm gồm có 02 Luật sư, cụ thể:
1. Bà Trần Thu H là Luật sư của Công ty luật Một thành viên A thuộc Đoàn luật sư thành phố H; có mặt tại phiên tòa.
2. Ông Nguyễn Hồng Đ là Luật sư của Công ty luật Trách nhiệm hữu hạn T - Đoàn luật sư Thành phố N; có mặt tại phiên tòa.
Bị hại: Bà Hoàng Thị Thu A, sinh năm 1964; địa chỉ cư trú tại Số nhà 4D, ngõ S, phường L, quận H, thành phố H; có đơn gửi Hội đồng xét xử xin được xét xử vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 28 tháng 4 năm 2019, Nguyễn Ngọc H từ huyện C về đến nhà tại Số 39 Lô 9, Tổ Đ, quận H, thành phố H thì thấy một nhóm thợ đang chuyển đồ của gia đình ra ngoài và chuyển đồ của bà Hoàng Thị Thu A, sinh năm 1964, trú tại Số 4D/69 đường K, phường Đ, quận H, thành phố H vào nhà. Do bực tức nên H lấy 01 chiếc bơm xe đạp ra đe dọa nhóm thợ nhằm mục đích không cho chuyển đồ vào nhà H đang ở thì bị một người trong nhóm thợ giằng lấy chiếc bơm trên tay H vứt ra, H tiếp tục lấy 01 thanh sắt dùng để nhổ đinh (gọng gà) chạy ra thì được mọi người can ngăn, bà Hoàng Thị Thu A đang đứng gần đó có nói: “Máu tao tanh lắm mày không làm gì được đâu!”. Lúc này, H bức xúc chạy vào trong nhà lấy 01 thanh mã tấu dài khoảng 83,9 cm, phần lưỡi mã tấu bằng kim loại màu trắng sáng, bản rộng khoảng 10 -15cm, đầu nhọn, chạy đến chỗ bà Hoàng Thị Thu A đang đứng, H cầm mã tấu bằng tay phải vung lên chém theo hướng từ trên xuống dưới về phía bà Hoàng Thị Thu A nhưng không trúng. Bà Thu A bỏ chạy, đồng thời có người trong nhóm đến ôm và can ngăn H, nhưng H vùng ra tiếp tục cầm mã tấu đuổi theo bà Hoàng Thị Thu A, khi cách nhau khoảng 1,5m thì H cầm mã tấu bằng hai tay vung lên chém theo hướng từ trên xuống dưới trúng vào vùng đầu bà Thu A (lúc này bà Thu A đang đội 01 mũ bảo hiểm dạng lưỡi trai màu trắng). Bà Thu A ngã gục xuống lòng đường, H tiếp tục cầm mã tấu bằng hai tay chém 01 nhát xuống đường cách đầu bà Thu A khoảng 07 đến 10 cm làm mã tấu bật lên trúng vào vùng tai bên phải bà Thu A, sau đó H tiếp tục dùng phần bản rộng của mã tấu đập vào vùng bả vai phía sau lưng bà Thu A 02 nhát thì được mọi người can ngăn. Bà Hoàng Thị Thu A được mọi người đưa đến bệnh viện cấp cứu, còn H đi về nhà rồi đến Cơ quan Công an đầu thú.
Kết quả khám nghiệm hiện trường, Cơ quan điều tra đã thu giữ dấu vết nghi máu, 01 mũ bảo hiểm dạng lưỡi trai màu trắng bị rách vỡ phần bên trái mũ. Chiếc mã tấu H dùng để chém bà Thu A, ông Lê Đức C, sinh năm 1965 ở số 33N, N, C, thành phố H giao nộp cho Cơ quan điều tra.
Bản kết luận giám định pháp y số 200/2019/TgT ngày 02/5/2019 và Bản kết luận giám định pháp y bổ sung số 245/2019/TgT ngày 24/6/2019 của Trung tâm pháp y H kết luận: “Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể nạn nhân do vết thương rách da thái dương đỉnh trái và vành tai phải gây nên là 10%; vết thương rách da đầu vùng thái dương đỉnh trái, vết thương rách vành tai phải gây vỡ lún xương sọ vùng trán đỉnh trái, đụng dập tụ máu nhu mô não, tụ máu dưới màng cứng, xuất huyết dưới nhện và bầm tím xây xước da một vài vùng ở trên cơ thể bà Thu A đã được điều trị, đang dần ổn định, còn liệt không hoàn toàn nửa người phải, ưu thế tay phải.
- Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của nạn nhân do tổn thương vỡ lún xương sọ vùng trán đỉnh trái, tổn thương nhu mô não có di chứng liệt không hoàn toàn nửa người phải, ưu thế tay phải gây nên là 55%.
- Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của nạn nhân do các thương tích trên gây nên theo phương pháp cộng lùi và làm tròn số là 60%.
Các vết bầm tím có đặc điểm do vật tày tác động trực tiếp gây nên. Mã tấu mà cơ quan điều tra thu giữ có thể gây nên vết thương rách da đầu, vết thương rách vành tai phải, vết xây xước da vùng lưng và các vết bầm tím”.
Bản kết luận giám định số 39/2019/GĐSH ngày 07 tháng 6 năm 2019, Phòng kỹ thuật hình sự của Công an thành phố H kết luận: Mẫu dấu vết nghi máu thu ở hiện trường và thu được trên mũ bảo hiểm có máu người là máu của bà Hoàng Thị Thu A.
Quá trình tại cơ quan điều tra, bị hại Hoàng Thị Thu A có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2020/HSST ngày 10 tháng 02 năm 2020, Tòa án nhân dân thành phố H đã căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 15; Điều 57 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc H 14 (mười bốn) năm tù về tội “Giết người” (chưa đạt), thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 29/4/2019.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền được kháng cáo.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 15 tháng 02 năm 2020 Nguyễn Ngọc H kháng cáo xin được giảm hình phạt.
Tại phiên tòa sơ thẩm cũng như ở phiên tòa phúc thẩm, Luật sư bào chữa bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bị cáo cho rằng, các cơ quan tiến hành tố tụng ở cấp sơ thẩm quy kết bị cáo về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự là không đúng tội danh, bởi lẽ lúc đầu Công an quận H, thành phố H đã khởi tố bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự sau đó lại thay đổi quyết định khởi tố bị cáo về tội “Giết người”, tuy nhiên quá trình điều tra chưa chứng minh được bị cáo có mục đích tước đoạt tính mạng của bà Hoàng Thị Thu A; bị cáo cầm mã tấu chém vào phần đầu của bị hại là nguy hiểm đến tính mạng nhưng vì lỗi của bị hại tự ý chuyển đồ vào nhà bị cáo gây bức xúc nên bị cáo chém bị hại song không mong muốn và cũng không nhận thức được hậu quả xảy ra, vì vậy hành vi của bị cáo chỉ có thể là phạm tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”. Về phía bị cáo chỉ tha thiết đề nghị được Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét giảm mức hình phạt cho bị cáo so với quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên đại diện cho Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội, ý kiến tranh luận của bị cáo, của các luật sư bào chữa cho bị cáo và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa;
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm cũng như ở phiên tòa sơ thẩm, bị cáo đều thành khẩn khai nhận về toàn bộ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện. Lời khai của bị cáo tại phiên toà sơ thẩm, phiên tòa phúc thẩm đều phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra vụ án; phù hợp với lời khai người làm chứng, vật chứng thu giữ, biên bản khám nghiệm hiện trường, kết luận giám định thương tích do vật sắc nhọn gây nên ở vùng đầu, các thương tích trên cơ thể bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, cho nên Hội đồng xét xử phúc thẩm có đủ cơ sở kết luận:
Vào khoảng 17 giờ 30 phút ngày 28 tháng 4 năm 2019, tại khu vực Tổ 13 phường Đ, quận H, thành phố H, xuất phát từ bức xúc trong việc bà Hoàng Thị Thu A là chị gái của vợ bị cáo thuê nhóm người chuyển đồ đạc đến nhằm chiếm đoạt nhà ở của mình, Nguyễn Ngọc H đã lấy bơm xe đạp, thanh sắt gọng gà để đe dọa đánh bà Hoàng Thị Thu A. Sự việc đã được mọi người can ngăn nhưng sau đó Nguyễn Ngọc H lấy tiếp 01 thanh mã tấu chém bà Thu A nhưng không trúng khiến bà Hoàng Thị Thu A hoảng sợ phải bỏ chạy, sau đó Nguyễn Ngọc H tiếp tục cầm mã tấu đuổi theo chém vào đầu bà Hoàng Thị Thu A, gây vỡ lún xương sọ vùng trán đỉnh trái, tụ máu nhu mô não, tụ máu dưới màng cứng, rách vành tai phải, bầm tím vùng bả vai...làm tổn hại 60% sức khỏe đối với bị hại.
Tại phiên tòa phúc thẩm cũng như ở phiên tòa sơ thẩm, người bào chữa cho bị cáo cho rằng, về tỷ lệ thương tích là do bị hại ngã và có bệnh. Về nội dung này, Hội đồng xét xử phúc thẩm cũng đồng tình như quan điểm của Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã phân tích và đánh giá khi cho rằng, bị hại có bị ung thư tử cung nhưng không liên quan cũng như không ảnh hưởng đến thương tích vùng đầu của bị hại theo như kết luận giám định; lời khai của bị cáo khai chỉ dọa đối với bị hại để người bị hại sợ là không có căn cứ vì bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi, động cơ và mục đích phạm tội tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa; mặt khác, với nhận thức của bị cáo, buộc bị cáo phải nhận thức được hành vi cầm mã tấu đuổi chém, bổ từ trên xuống dưới vào đầu của bị hại là nguy hiểm đến tính mạng của người khác, bị hại không chết là nằm ngoài ý thức chủ quan của bị cáo. Do đó, trong trường hợp này Nguyễn Ngọc H bị cấp sơ thẩm quy kết về tội “Giết người” (chưa đạt) theo quy định tại Điều 123 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ.
[2] Khi xét xử, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá về tính chất vụ án là rất nghiêm trọng; do mâu thuẫn nhỏ nhặt trong sinh hoạt với chị gái ruột của vợ, bị cáo Nguyễn Ngọc H đã dùng mã tấu là hung khí nguy hiểm đuổi chém bà Hoàng Thị Thu A lần đầu không trúng, sau đó bị cáo lại tiếp tục đuổi theo, cầm mã tấu chém vào đầu của bà Hoàng Thị Thu A, gây vỡ lún xương sọ vùng trán đỉnh trái, đụng dập tụ máu nhu mô não, tụ máu dưới màng cứng, rách vành tai phải, bầm tím vùng bả vai... làm giảm 60% sức khỏe của nạn nhân. Hành vi của bị cáo rõ ràng đã thể hiện sự quyết liệt và dùng hung khí nhằm vào vùng trọng yếu trên cơ thể là vùng đầu, thể hiện sự coi thường tính mạng của người khác, coi thường pháp luật cho nên bị cáo Nguyễn Ngọc H bị truy tố và xét xử về tội “Giết người” quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ.
[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Ngọc H, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng: Khi xem xét quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, theo đó xác định: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, sau khi phạm tội, bị cáo đã ra đầu thú, thành khẩn khai báo và tỏ ra rất ăn năn hối cải; gia đình bị cáo thuộc diện có công với cách mạng, đồng thời sau khi vụ án xảy ra, bị cáo đã động viên gia đình bồi thường cho gia đình bị hại 180.000.000 (một trăm tám mươi triệu) đồng. Những tình tiết vừa nêu là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự .
Trên cơ sở xem xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo chưa đạt và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nguyên nhân dẫn đến vụ án có một phần lỗi của bị hại, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng Điều 57 của Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo Nguyễn Ngọc H cũng là có căn cứ.
Tại phiên tòa sơ thẩm, người bào chữa còn có quan điểm đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đối với hành vi tự ý chuyển đồ đạc vào nhà bị cáo Nguyễn Ngọc H. Về nội dung này, Tòa án cấp sơ thẩm cũng đã kiến nghị với Cơ quan điều tra Công an thành phố H xem xét theo thẩm quyền.
Cũng tại phiên tòa phúc thẩm, Luật sư bào chữa cho bị cáo còn đưa ra thêm một số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới đối với bị cáo như: Sau khi vụ án xảy ra, vợ bị cáo là bà Hoàng Thị Việt N đã tích cực tham gia cứu chữa, khắc phục hậu quả bồi thường cho bị hại; trong quá trình lao động và công tác tại công ty, bị cáo đạt nhiều thành tích nên đã được các cấp có thẩm quyền nhiều lần khen thưởng; thêm nữa, hoàn cảnh gia đình bị cáo cũng hết sức khó khăn, bố mẹ đều già yếu, các con chưa có công ăn việc làm, bị cáo lại là lao động chính trong gia đình, cho nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giảm một phần hình phạt cho bị cáo.
Xem xét về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm cũng đồng tình như phân tích, đánh giá của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa theo hướng bị cáo có thêm nhiều tình tiết giảm nhẹ mới, cho nên có căn cứ để chấp nhận đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.
Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4] Về án phí phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Ngọc H có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, đã được Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận cho nên bị cáo Nguyễn Ngọc H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
Căn cứ vào khoản 1 Điều 355 của Bộ luật tố tụng hình sự;
QUYẾT ĐỊNH
Chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án hình sự sơ thẩm; cụ thể:
1. Căn cứ vào điểm n khoản 1 Điều 123; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; các Điều 38, Điều 15, Điều 57 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc H 12 (mười hai) năm tù về tội “Giết người” (chưa đạt), thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/4/2019.
2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
3. Bị cáo Nguyễn Ngọc H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 439/2020/HSPT ngày 15/09/2020 về tội giết người
Số hiệu: | 439/2020/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/09/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về