Bản án 435/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 435/2019/HS-ST NGÀY 28/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

 Ngày 28 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 404/2019/TLST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 438/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Lê Hồng S, sinh năm 1983 tại tỉnh Đồng Nai; thường trú: Số SS, đường số MC, khu phố N, phường B Ch, quận Th Đ, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Lê Văn S, sinh năm 1963 và bà Phan Thị B, sinh năm 1963; bị cáo có 02 em ruột, lớn sinh năm 1985, nhỏ sinh năm 1989; bị cáo có vợ tên là Nguyễn Thị H, sinh năm 1989; có 02 con ruột, lớn sinh năm 2015, nhỏ sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 12/6/2019 đến ngày 09/7/2019 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại, có mặt.

2. Bùi Đức Tr, sinh năm 1984 tại tỉnh Hà Tĩnh; thường trú: Thôn B, xã C M, huyện C X, tỉnh Hà Tĩnh; tạm trú: Số 4/35 khu phố B Đ 1, phường A B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Bùi Đức L, sinh năm 1954 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1954; bị cáo có 05 anh em ruột, lớn nhất sinh năm 1978, nhỏ nhất sinh năm 2000; bị cáo có vợ tên là Bùi Thị L, sinh năm 1987; có 02 con ruột, lớn sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 12/6/2019 đến ngày 09/7/2019 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại, có mặt.

- Nguyên đơn dân sự: Liên hiệp HTX T; có trụ sở tại: Số 199 -205 đường Ng Th H, phường Ph Ng L, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Nguyên T; chức vụ: Phó giám đốc Chi nhánh Kho trung tâm phân phối; có mặt.

- Bị đơn dân sự: Công ty TNHH vận tải M Ph; có trụ sở tại: Số 16/3/1 đường BS, phường B Tr T, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Trọng T; chức vụ; Giám đốc; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Đào Vũ H, sinh năm 1972; thường trú: Số 859/8/5 Tỉnh lộ BB, khu phố N, phường T B, quận Th Đ, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt.

2. Bà Châu Thị Kim H, sinh năm 1990; thường trú: Số 559C đường Tr H Đ, Phường MB, Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt.

3. Ông Lê Thành V, sinh năm 1985; thường trú: 6.02 chung cư Ng Tr Ph, số 7A đường Th Th, phường MB, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt.

4. Ông Hà Quang Tr, sinh năm 1974; thường trú: Số 925/55/21 đường H Gi, Phường MM, Quận S, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt.

5. Ông Nguyễn Thành H, sinh năm 1980; thường trú: Số 317, Lô A, chung cư C Gi, phường C Gi, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt.

6. Bà Bùi Thị L, sinh năm 1987; thường trú: Thôn B, xã C M, huyện C X, tỉnh Hà Tĩnh; tạm trú: Số 4/35 khu phố B Đ 1, phường A B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; có mặt.

* Người tham gia tố tụng khác:

- Người làm chứng:

1. Ông Vũ Đào Qu, sinh năm 1978; vắng mặt.

2. Ông Trần Đình Ph, sinh năm 1983; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Hồng S là nhân viên soạn hàng, xuất hàng của Chi nhánh kho Trung tâm phân phối thuộc Liên hiệp hợp tác xã T (gọi tắt là Trung tâm phân phối S G C), tại địa chỉ Lô MN 4A, đường số C, khu công nghiệp S Th 1, phường D A, thị xã D A, tỉnh Bình Dương. Bùi Đức Tr là tài xế của công ty TNHH MTV vận tải M Ph (gọi tắt Công ty M Ph) tại địa chỉ số 16/3/01, đường số BS, phường B Tr T, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh. Công ty M Ph ký hết hợp đồng vận chuyển hàng hóa cho Trung tâm phân phối S G C, trong quá trình vận chuyển hàng hóa S và Tr quen biết nhau và đã lén lút thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 05/6/2019, Tr điều khiển xe ô tô tải thùng biển số 51C-944.61 chạy vào Trung tâm phân phối S G C gặp S để nhận hàng vận chuyển đến cửa hàng Coop Food A L thuộc phường A L, quận B T, Thành phố Hồ Chí Minh. Lúc này, tại kho phân phối S rủ Tr chiếm đoạt số thùng bia không có hóa đơn bỏ lên xe ô tô đem ra ngoài bán lấy tiền tiêu xài thì Tr đồng ý. Để thực hiện ý định, ngoài số hàng xuất theo hóa đơn, S còn lén lút lấy thêm 20 thùng bia hiệu Tiger nâu, loại 24 lon x 330 ml bỏ lên ba lết đẩy ra ngoài để Tr bỏ lên thùng xe ô tô tải. Khi nhận hàng và được giám sát nội bộ niêm phong thùng xe, Tr điều khiển xe ô tô tải biển số 51C-944.61 chạy đến cửa hàng Coop Food A L giao hàng theo hóa đơn, còn 20 thùng bia Tiger trên thùng xe thì Tr chở đến tiệm tạp hóa không rõ tên, địa chỉ trên đường H B thuộc phường H B Ch, quận Th Đ, Thành phố Hồ Chí Minh bán với giá 5.000.000 đồng, sau đó cả hai chia nhau mỗi người số tiền 2.500.000 đồng rồi tiêu xài cá nhân hết.

Vụ thứ hai: Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 07/6/2019, Tr điều khiển xe ô tô tải thùng biển số 51C-944.61 chạy vào Trung tâm phân phối S G C để nhận hàng vận chuyển đến cửa hàng Coop Food H V L thuộc phường B H H B, quận B T, Thành phố Hồ Chí Minh. Tại đây, S lén lút chiếm đoạt thêm 22 thùng bia hiệu Tiger nâu, loại 24 lon x 330 ml đưa ra ngoài để cho Tr bỏ lên xe ô tô tải. Sau khi giao hàng theo hóa đơn, Tr chở 22 thùng bia đã chiếm đoạt đến tiệm tạp hóa không rõ tên, địa chỉ trên đường H B thuộc phường H B Ch, quận Th Đ, Thành phố Hồ Chí Minh bán với giá 5.500.000 đồng, sau đó cả hai chia nhau mỗi người số tiền 2.750.000 đồng rồi tiêu xài cá nhân hết.

Vụ thứ ba: Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 08/6/2019, Tr điều khiển xe tải thùng biển số 51C-944.61 chạy vào Trung tâm phân phối S G C để nhận hàng vận chuyển đến cửa hàng Coop Food T l 10 thuộc phường T T, quận B T, Thành phố Hồ Chí Minh. Cũng với thủ đoạn tương tự, S lén lút chiếm đoạt thêm 10 thùng bia hiệu Heineken loại 24 lon x 330ml, 02 thùng cà phê hòa tan hiệu G7-3inl loại 1 hộp 21 gói x 16g, 02 thùng cà phê hòa tan hiệu G7-3inl loại 1 hộp 18 gói x 16g, 01 thùng cà phê hòa tan hiệu King-3inl loại 1 hộp 20 gói x 16 g đưa ra ngoài để cho Tr bỏ lên xe ô tô tải. Sau khi giao hàng theo hóa đơn, Tr chở số tài sản chiếm đoạt được đến tiệm tạp hóa không rõ tên, địa chỉ trên đường H B thuộc phường H B Ch, quận Th Đ, Thành phố Hồ Chí Minh bán với giá 6.300.000 đồng, sau đó cả hai chia nhau mỗi người số tiền 3.150.000 đồng rồi tiêu xài cá nhân hết.

Vụ thứ tư: Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 11/6/2019, Tr điều khiển xe ô tô tải biển số 51C-944.61 chạy vào Trung tâm phân phối S G C để nhận hàng vận chuyển đến cửa hàng Coop Food L Th H thuộc xã T X, huyện H M, Thành phố Hồ Chí Minh. Cũng với thủ đoạn tương tự, S lén lút chiếm đoạt thêm 10 thùng bia hiệu Heineken loại 24 lonx330ml, 10 thùng thức uống dinh dưỡng Milo hg180ml, 02 thùng NESCAFED.DA H.HOA3inl hg20x17g, 02 thùng cà phê rang xay House hộp 500g đưa ra ngoài để cho Tr bỏ lên xe ô tô tải. Sau khi giao hàng theo hóa đơn, Tr chở số tài sản chiếm đoạt được đến ngã tư đường L Th H giao nhau với đường S H thuộc huyện H M, Thành phố Hồ Chí Minh. Tại đây, Tr sử dụng điện thoại di động hiệu Samsung J7 màu vàng đồng gọi cho tên H (không rõ nhân thân, lai lịch) đến gặp và nhờ H đem bia, cà phê đi bán dùm thì H đồng ý. Đến khoảng 17 giờ 00 phút cùng ngày, H gặp Tr tại quán cà phê 52 trong chợ Kh T thuộc quận Th Đ, Thành phố Hồ Chí Minh thì H đưa cho Tr số tiền 7.200.000 đồng, Tr cho H số tiền 200.000 đồng rồi cả hai ra về. Đến ngày 21/6/2019, Trung tâm phân phối S G C kiểm tra camera an ninh lại thì phát hiện S, Tr đã chiếm đoạt tài sản nên trình báo Công an Đồn khu công nghiệp S Th mời cả hai về làm việc. Tại Công an Đồn khu công nghiệp S Th thì S, Tr đã đầu thú khai nhận hành vi phạm tội của mình và giao nộp tiền thu lợi bất chính 7.000.000 đồng.

Vật chứng thu giữ: 01 (một) chiếc xe ô tô tải thùng nhãn hiệu Thaco màu đồng, biển số: 51C-944.61; số tiền 7.000.000 đồng; 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J7 màu vàng đồng sim số 0978256542.

Căn cứ của Hội đồng định giá thị xã Dĩ An kết luận: 10 (mười) thùng bia hiệu Heineken, loại 24 lon x 330ml có trị giá 3.445.450 đồng; 10 (mười) thùng thức uống dinh dưỡng hiệu Milo, loại hg 180ml có trị giá 2.693.840 đồng; 02 (hai) thùng cà phê rang xay hiệu House, loại hộp 500g có trị giá 2.038.896 đồng; 02 (hai) thùng Nescafed.da h.hoa 3inl, hg 20 x 179 có trị giá 1.821.998 đồng.

Căn cứ Kết luận định giá tài sản số 221/BB.ĐG ngày 18/10/2019 của Hội đồng định giá thị xã Dĩ An kết luận: 20 (hai mươi) thùng bia hiệu Tiger nâu, loại 24 lon x 330 ml có trị giá 5.709.100 đồng; 22 (hai mươi hai) thùng bia hiệu Tiger nâu, loại 24 lon x 330 ml có trị giá 6.280.010 đồng; 10 (mười) thùng bia hiệu Heineken, loại 24 lon x 330ml có trị giá 3.445.450 đồng; 02 (hai) thùng cà phê hòa tan hiệu G7-3inl, loại 1 hộp 21 gói x 16g có trị giá 1.857.600 đồng; 02 (hai) thùng cà phê hòa tan hiệu G7-3inl, loại 1 hộp 18 gói x 16g có trị giá 1.673.018 đồng; 01 (một) thùng cà phê hòa tan hiệu King-3inl, loại 1 hộp 20 gói x 16g có trị giá 830.758 đồng; 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung J7, màu vàng có trị giá 2.000.000 đồng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo và nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự không có ý kiến hay khiếu nại gì về các Kết luận định giá tài sản số 143/BB.ĐG ngày 19/6/2019 và Kết luận định giá tài sản số 221/BB.ĐG ngày 18/10/2019 của Hội đồng định giá thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Ngày 20/6/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự; Quyết định khởi tố bị can đối với Bùi Đức Tr, Lê Hồng S về tội Trộm cắp tài sản quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi bổ sung năm 2017.

Đi với tên H, mà Tr nhờ H đem bia, cà phê đi bán dùm, hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã D A đang tiếp tục xác minh, khi nào rõ sẽ xử lý sau.

Đi với những người đã mua tài sản do Bùi Đức Tr đem bán, hiện chưa rõ nhân thân lại lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã D A đang tiếp tục xác minh, khi nào rõ sẽ xử lý sau.

Tại Cáo trạng số 422/CT-VKS-DA ngày 11 tháng 11 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố Lê Hồng S, Bùi Đức Tr về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo Lê Hồng S, Bùi Đức Tr về tội “Trộm cắp tài sản” đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 36; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Lê H Sơn từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm cải tạo không giam giữ và Bùi Đức Tr từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm cải tạo không giam giữ.

* Về xử vật chứng:

- Đối với 01 (một) chiếc xe ô tô tải thùng nhãn hiệu Thaco màu đồng, biển số 51C-944.61 là tài sản hợp pháp của ông Lê Trọng T người đại diện theo pháp luật của công ty M Ph, ông T không biết việc Bùi Đức Tr sử dụng xe ô tô trên làm phương tiện phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã D A đã trả lại tài sản này cho ông Tài.

- Đối với 7.000.000 đồng là tiền thu lợi bất chính có được của Bùi Đức Tr và Lê Hồng S, do đó đề nghị tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Đối với 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J7 màu vàng đồng do Bùi Đức Tr sử dụng vào việc phạm tội, đây là tài sản chung của Tr và vợ là Bùi Thị L, do đó đề nghị tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước ½ giá trị chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J7 màu vàng đồng và trả lại cho bà L ½ giá trị chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J7 màu vàng đồng.

- Đối với sim số 0978256542 do Bùi Đức Tr sử dụng vào việc phạm tội, đề nghị tịch thu tiêu hủy.

* Về trách nhiệm dân sự: Các bị cáo Lê Hồng S, Bùi Đức Tr đã bồi thường tổng số tiền 65.551.000 đồng cho nguyên đơn dân sự Liên hiệp HTX T, đồng thời nguyên đơn dân sự không yêu cầu gì khác nên trách nhiệm dân sự không đặt ra xem xét.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo không có ý kiến tranh luận với Viện kiểm sát về điều luật áp dụng, khung hình phạt và về trách nhiệm dân sự đồng thời các bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Trong các ngày 05/6/2019, 07/6/2019, 08/6/2019 và ngày 11/6/2019, tại Trung tâm phân phối S G C, địa chỉ lô MN 4A, đường số C, khu công nghiệp S Th 1, thị xã D A, tỉnh Bình Dương. Lê Hồng S, Bùi Đức Tr đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản gồm 20 thùng bia hiệu Tiger nâu, loại 24 lon x 330 ml có trị giá 5.709.100 đồng; 22 thùng bia hiệu Tiger nâu, loại 24 lon x 330 ml có trị giá 6.280.010 đồng; 10 thùng bia hiệu Heineken, loại 24 lon x 330ml có trị giá 3.445.450 đồng; 02 thùng cà phê hòa tan hiệu G7-3inl, loại 1 hộp 21 gói x 16g có trị giá 1.857.600 đồng; 02 thùng cà phê hòa tan hiệu G7-3inl, loại 1 hộp 18 gói x 16g có trị giá 1.673.018 đồng; 01 thùng cà phê hòa tan hiệu King-3inl, loại 1 hộp 20 gói x 16g có trị giá 830.758 đồng; 10 thùng bia hiệu Heineken, loại 24 lon x 330ml có trị giá 3.445.450 đồng; 10 thùng thức uống dinh dưỡng hiệu Milo, loại hg 180ml có trị giá 2.693.840 đồng; 02 thùng cà phê rang xay hiệu House, loại hộp 500g có trị giá 2.038.896 đồng; 02 thùng Nescafed.da h.hoa 3inl, hg 20 x 179 có trị giá 1.821.998 đồng của Trung tâm phân phối S G C. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 29.796.120 đồng.

[3] Như vậy, hành vi trên đây của các bị cáo lén lút chiếm đoạt tài sản có trị giá 29.796.120 đồng của nguyên đơn dân sự, đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản’’ theo quy định khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng số 422/CT-VKS ngày 11 tháng 11 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và kết luận của Kiểm sát viên truy tố các bị cáo Lê Hồng S, Bùi Đức Tr về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; bị cáo hoàn toàn đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

[4] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do các bị cáo thực hiện là ít nghiêm trọng nhưng đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của nguyên đơn dân sự được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Về nhận thức các bị cáo hoàn toàn biết hành vi trộm cắp tài sản của người khác là trái pháp luật nhưng vì lòng tham, muốn kiếm tiền nhanh chóng không phải lao động để phục vụ nhu cầu bản thân mà các bị cáo cố tình thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo các bị cáo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[5] Đây là vụ án có tính chất đồng phạm nhưng là giản đơn không có sự cấu kết chặt chẽ, không có sự bàn bạc, phân công vai trò cụ thể khi thực hiện hành vi phạm tội nên không xem là phạm tội có tổ chức. Các bị cáo là người trực tiếp chiếm đoạt tài sản của nguyên đơn dân sự.

[6] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo phạm tội 02 lần trở lên, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[7] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; các bị cáo đã bồi thường khắc phục hậu quả cho nguyên đơn dân sự; khi phạm tội các bị cáo đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, bị cáo Tr có cha là ông Bùi Đức L là Thương binh 4/4 đồng thời nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự có yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[8] Về nhân thân: Các bị cáo là người có nhân thân tốt thể hiện các bị cáo là người chưa có tiền án, tiền sự và là lao động chính trong gia đình, các bị cáo đang nuôi con nhỏ nên cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[9] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Xét các bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, có nhân thân tốt, nhất thời phạm tội, có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hiện lao động chính trong gia đình, đang nuôi con nhỏ, thời giam tạm giam cũng đủ răn đe, giáo dục các bị cáo đồng thời trong thời gian tại ngoại bị cáo chấp hành tốt chính sách pháp luật tại địa phương nên Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với các bị cáo tạo điều kiện cho các bị cáo tự cải tạo dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương nơi các bị cáo cư trú đồng thời có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung đồng thời các bị cáo là người lao động có thu nhập thấp, nên không áp dụng quy định khấu trừ một phần thu nhập khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với các bị cáo theo quy định tại khoản 3 Điều 36 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với các bị cáo nên cần hủy bỏ Quyết định về việc bảo lĩnh số: 19, 20/2019/HSST-LCĐKNCT ngày 11/11/2019 của Tòa án nhân dân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương đối với Lê Hồng S, Bùi Đức Tr.

- Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Tuy nhiên, các bị cáo là người lao động có thu nhập thấp, áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ cũng đủ sức răn đe, giáo dục đối bị cáo nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[9] Về xử vật chứng:

- Đối với 01 (một) chiếc xe ô tô tải thùng nhãn hiệu Thaco màu đồng, biển số 51C-944.61 là tài sản hợp pháp của ông Lê Trọng T người đại diện theo pháp luật của công ty M Ph, ông T không biết việc Bùi Đức Tr sử dụng xe ô tô trên làm phương tiện phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã D A đã trả lại tài sản này cho ông T nên không đặt ra xem xét.

- Xét 7.000.000 đồng là tiền thu lợi bất chính có được của Bùi Đức Tr và Lê Hồng S nên tịch thu sung Ngân sách Nhà nước.

- Xét 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J7 màu vàng đồng do Bùi Đức Tr sử dụng vào việc phạm tội, đây là sản chung của Triều và vợ là Bùi Thị L, do đó đề nghị tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước ½ giá trị chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J7 màu vàng đồng và trả lại cho bà L ½ giá trị chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J7 màu vàng đồng.

- Xét sim số 0978256542 do Bùi Đức Tr sử dụng vào việc phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[10] Về trách nhiệm dân sự: Các bị cáo Lê Hồng S, Bùi Đức Tr đã bồi thường tổng số tiền 65.551.000 đồng cho nguyên đơn dân sự Liên hiệp HTX T, đồng thời nguyên đơn dân sự không yêu cầu gì khác nên trách nhiệm dân sự Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[11] Đối với tên H, mà Tr nhờ H đem bia, cà phê đi bán dùm, hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã D A đang tiếp tục xác minh, khi nào rõ sẽ xử lý sau và đối với những người đã mua tài sản do Bùi Đức Tr đem bán, hiện chưa rõ nhân thân lại lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã D A đang tiếp tục xác minh, khi nào rõ sẽ xử lý sau là đúng theo quy định của pháp luật.

[12] Xét đề nghị Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng, khung hình phạt, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo và trách nhiệm dân sự là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[13] Án phí sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Lê Hồng S, Bùi Đức Tr phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 36; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Lê Hồng S 02 (hai) năm cải tạo không giam giữ, được khấu trừ thời gian tạm giam từ ngày 12/6/2019 đến ngày 09/7/2019. Bị cáo S còn phải tiếp tục chấp hành 01 (một) năm 09 (chín) tháng 06 (sáu) ngày. Giao bị cáo về cho Ủy ban nhân dân phường B Ch, quận Th Đ, Thành phố Hồ Chí Minh giám sát giáo dục. Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính kể từ ngày Ủy ban nhân dân phường B Ch, quận Th Đ, Thành phố Hồ Chí Minh nhận được Bản án và Quyết định thi hành án.

- Xử phạt bị cáo Bùi Đức Tr 02 (hai) năm cải tạo không giam giữ. được khấu trừ thời gian tạm giam từ ngày 12/6/2019 đến ngày 09/7/2019. Bị cáo Tr còn phải tiếp tục chấp hành 01 (một) năm 09 (chín) tháng 06 (sáu) ngày. Giao bị cáo về cho Ủy ban nhân dân phường A B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương giám sát giáo dục. Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính kể từ ngày Ủy ban nhân dân phường A B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương nhận được Bản án và Quyết định thi hành án.

Hy bỏ các Quyết định về việc bảo lĩnh số: 19, 20/HSST-QĐBL ngày 11 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước 7.000.000 đồng theo Biên lai thu tiền số 01335 ngày 11/11/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và ½ giá trị chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J7 màu vàng đồng.

- Trả lại cho bà Bùi Thị L ½ giá trị chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J7 màu vàng đồng.

- Tịch thu tiêu hủy sim số 0978256542.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 11/11/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An với Chi cục thi hành án dân sự thị xã Dĩ An).

3. Về án phí sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Các bị cáo Lê Hồng S, Bùi Đức Tr, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt bản án hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 435/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:435/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;