Bản án 433/2019/HS-ST ngày 23/09/2019 về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 433/2019/HS-ST NGÀY 23/09/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 23 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa - tỉnh Đồng Nai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 404/2019/TLST-HS ngày 23 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 427/ 2019/ QĐXXST-HS ngày 09 tháng 9 năm 2019 đối với các bị cáo:

Lê Quang V, sinh năm 1999 tại tỉnh Đồng Nai. Nơi cư trú: A4/15 khu phố 4, phường T, thành phố B, tỉnh Đ. Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hóa: 01/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn H, sinh năm 1955 và bà Võ Thị T, sinh năm 1969; Vợ, con chưa có; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 10/4/2019 bị ủy ban nhân dân phường T ban hành quyết định số 92/QĐ-XPVPHC xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 29/5/2019, đến ngày 06/6/2019 hủy bỏ biện pháp tạm giữ cho áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, đến ngày 12/6/2019 bị thay thế biện pháp ngăn chặn bắt để tạm giam (Có mặt).

Châu Hồng Ph, sinh năm 1984 tại tỉnh Đồng Nai. HKTT: A3/291D khu phố 3, phường T, thành phố B, tỉnh Đ. Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 01/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Châu Văn H, sinh năm 1957 (đã chết) và bà Trương Thị Kim V, sinh năm 1962; có vợ là Dương Thị Ngọc Ph, sinh năm 1979, có 05 con; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 04/6/2019 bị Ủy ban nhân dân phường T ban hành quyết định số 148/QĐ- XPHC xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 12/6/2019, đến ngày 20/6/2019 hủy bỏ biện pháp tạm giữ bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú (Có mặt).

Bị hại:

Chị Trần Thị Ngọc M, sinh năm 1988. Trú tại: A3/328D khu phố 3, phường T, thành phố B, tỉnh Đ (Vắng mặt).

Anh Đặng Hoàng Th, sinh năm 1984. Trú tại: A4/37A khu phố 4, phường T, thành phố B, tỉnh Đ (Vắng mặt).

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Anh Lê Văn T, sinh năm 1990. Trú tại: 16/3 khu phố 2, phường B, thành phố B, tỉnh Đ (Vắng mặt).

Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1994. Trú tại: K4/201 khu phố 5, phường B, thành phố B, tỉnh Đ (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 04 giờ 30 phút, ngày 29/5/2019 Lê Quang V đi bộ lang thang để tìm tài sản lấy trộm, khi đến nhà số A3/328D khu phố 3, phường Tân Vạn, thành phố Biên Hòa do chị Trần Thị Ngọc M làm chủ. V trèo tường rào vào trong sân, phát hiện cửa sổ phòng ngủ nhà chị M mở, nhìn vào trong V thấy có chiếc điện thoại Samsung Galaxy J7 Plus màu đen đang cắm sạc pin. Lúc này V lấy chiếc móc phơi đồ dài khoảng 1,2m kéo chiếc điện thoại lại gần rồi lấy trộm. Đến khoảng 08 giờ 30 phút cùng ngày, V mang chiếc điện thoại trên đến cửa hàng điện thoại “Hậu Smart Phone” địa chỉ tại khu phố 2 phường Tân Vạn, thành phố Biên Hòa do anh Huỳnh Công H làm chủ để chạy lại phần mềm máy mở mật khẩu, nhưng do máy chưa lấy được ngay nên V để máy lại và hẹn 01 giờ sau sẽ quay lại lấy. Sau khi bị mất điện thoại chị M cùng gia đình đã đến công an phường Tân Vạn, thành phố Biên Hòa trình báo sự việc và tìm kiếm chiếc điện thoại. Quá trình tìm kiếm thì được biết chiếc điện thoại Samsung Galaxy J7 Plus của chị M đang sửa chữa tại tiệm điện thoại Hậu Smart Phone do một người thanh niên mang đến sửa nên báo Công an phường Tân Vạn xuống làm việc. Khoảng 09 giờ 30 phút cùng ngày V quay lại cửa hàng để lấy chiếc điện thoại thì bị Công an phường Tân Vạn bắt giữ. Vật chứng thu giữ gồm: 01 chiếc điện thoại Samsung Galaxy J7 Plus màu đen và 01 cây móc phơi đồ bằng nhôm dài 1,2m.

Quá trình điều tra V được tại ngoại, đến khoảng 03 giờ 30 phút ngày 09/6/2019, Lê Quang V đi bộ một mình để tìm tài sản trộm cắp. Khi tới nhà số A4/37A khu phố 4, phường Tân Vạn, thành phố Biên Hòa do anh Đặng Hoàng Th làm chủ, V phát hiện bên hông nhà không có cánh cửa nên đột nhập vào trong nhà lấy trộm 01 chiếc điện thoại Samsung Galaxy J7 Plus màu trắng, 01 chiếc điện thoại nhãn hiện Nokia 1010 và số tiền 14.350.000 đồng. Sau khi lấy trộm được số tài sản này, V mang về nhà Châu Hồng Ph tại A3/291D khu phố 3, phường Tân Vạn, thành phố Biên Hòa và nói với Ph là tài sản vừa lấy trộm được. V lấy số tiền 2.500.000 đồng để tiêu xài cá nhân và đưa 02 điện thoại cùng số tiền 11.850.000 đồng cho Ph cất giữ, Ph đã lấy số tiền này tiêu xài cá nhân hết 2.350.000 đồng. Khoảng 14 giờ cùng ngày, V nói Ph đưa lại cho V số tiền 5.500.000 đồng trong số tiền 11.850.000 đồng V đã nhờ Ph cất giữ trước đó để tiêu xài cá nhân và rủ Ph cùng đi bán chiếc điện thoại V đã lấy trộm được thì Ph đồng ý. Ph sử dụng chiếc xe mô tô nhãn hiệu dream biển số 60M8-8063 chở V mang chiếc điện thoại Samsung Galaxy J7 Plus đi bán tại cửa hàng điện thoại “Thuận Phát Tài” địa chỉ số 16/3 khu phố 2, phường Bửu Long, thành phố Biên Hòa do Lê Văn T làm chủ được 1.600.000 đồng, sau đó tới một cửa hàng điện thoại tại khu vực Dốc Núi, phường Bửu Hòa, thành phố Biên Hòa mua 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Samsung, Model SM-J250F/DS trị giá 1.600.000 đồng rồi đi về nhà Ph. Khoảng 18 giờ ngày 10/6/2019 V đến nhà Ph lấy chiếc điện thoại Nokia 1010 do V lấy trộm trước đó mang đến cửa hàng điện thoại “Anh Tương” địa chỉ K4/201 khu phố 5, phường Bửu Hòa, thành phố Biên Hòa do Nguyễn Văn T làm chủ bán được 120.000 đồng tiêu xài cá nhân hết.

Riêng 02 chiếc sim điện thoại tháo ra từ chiếc điện thoại Samsung Galaxy J7 Plus V lấy trộm của anh Đặng Hoàng Th, Ph cầm qua nhà anh Ngô Hoài Ng chơi và để quên tại nhà Ng, sau đó Trương Ngọc Th đến nhà Ng chơi nhìn thấy lấy sim lắp vào điện thoại của mình thì phát hiện có cuộc gọi nhỡ nên gọi lại thì anh Th nghe máy. Anh Th nói dối Th là có nợ tiền và muốn trả nên hẹn Th tới khu phố 1, phường Tân Vạn, thành phố Biên Hòa để đưa tiền. Do nảy sinh lòng tham nên Th rủ Trương Minh S cùng đi lấy tiền, khi S tới thì anh Th giữ S lại và báo cho Công an phường Tân Vạn, thành phố Biên Hòa đưa S về làm việc. Qua lời khai của S Công an phường Tân Vạn, thành phố Biên Hòa đã bắt giữ V và Ph, đồng thời lập hồ sơ chuyển cho Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Biên Hòa giải quyết theo đúng thẩm quyền. Vật chứng thu giữ gồm: 01 chiếc điện thoại Nokia màu xanh ngọc, model 1010, số IMEI 356-005-080-434-912; 01 chiếc sim điện thoại số thuê bao 097342359; số tiền 4.000.000 đồng; 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu dream biển số 60M8-8063; 01 chiếc điện thoại Samsung màu xám, model SM-J250F/DS; 01 sim điện thoại số thuê bao 0325489518.

Quá trình điều tra và tại phiên Tòa bị cáo Lê Quang V và bị cáo Châu Hồng Ph đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tôi như đã nêu trên.

Theo kết luận của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc UBND thành phố Biên Hòa số 209/TCKH-HĐĐG ngày 31/5/2019 kết luận 01 cái điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung Galaxy J7 Plus của chị M có trị giá 3.594.000đồng.

Theo kết luận của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc UBND thành phố Biên Hòa số 225/TCKH-HĐĐG ngày 14/6/2019 kết luận 01 cái điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung Galaxy J7 Plus và 01 cái điện thoại di động nhãn hiệu Nokia của anh Th có tổng trị giá 2.296.000 đồng.

Ti bản cáo trạng số 411/CT/VKSBH ngày 20 tháng 8 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa đã truy tố bị cáo Lê Quang V về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 và truy tố bị cáo Châu Hồng Ph về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 điều 323 Bộ luật hình sự năm 2015.

Ti phiên tòa, đại diện VKSND thành phố Biên Hòa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị: Tuyên bố bị cáo Lê Quang V phạm tội “Trộm cắp tài sản” và bị cáo Châu Hồng Ph phạm tội tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Áp dụng khoản 1 điều 173, điểm s khoản 1 điều 51, điểm g khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo V từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù; Áp dụng khoản 1 điều 323, điểm i, s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Ph từ 06 tháng đến 08 tháng tù. Buộc các bị cáo phải bồi thường cho bị hại anh Đặng Hoàng Th và chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Về vật chứng:

01 chiếc điện thoại Samsung Galaxy J7 Plus màu đen và 01 cây móc phơi đồ bằng nhôm dài 1,2m là tài sản của bị hại chị Trần Thị Ngọc M nên Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Biên Hòa đã trả lại cho chị M.

01 chiếc điện thoại Nokia màu xanh ngọc, model 1010, số IMEI 356-005- 080-434-912; 01 chiếc sim điện thoại số thuê bao 097342359; số tiền 4.000.000 đồnglà tài sản của bị hai anh Đặng Hoàng Th nên Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Biên Hòa đã trả lại cho anh Th.

01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu dream biển số 60M8-8063, qua xác minh là anh Vũ Duy H đứng tên chủ sở hữu, năm 2009 anh H đã bán cho một người không nhớ họ tên, địa chỉ. Hiện tại chiếc xe được Hồng Thanh N mua lại và sử dụng. Ngày 09/6/2019 N cho Châu Thị Hồng Nh mượn xe, sau đó Nh cho Châu Hồng Ph mượn lại xe khi được N đồng ý. N không biết Ph sử dụng xe vào việc phạm tội, nên Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Biên Hòa đã trả lại cho anh N.

01 chiếc điện thoại Samsung màu xám, model SM-J250F/DS; 01 sim điện thoại số thuê bao 0325489518 là tài sản Lê Quang V dùng tiền bán chiếc điện thoại Samsung Galaxy J7 Plus lấy trộm của anh Th để mua. Đề nghị tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Về dân sự: Chị Trần Thị Ngọc M đã nhận lại tài sản là chiếc điện thoại Samsung Galaxy J7 Plus và không có yêu cầu gì thêm. Anh Đặng Quang Th đã nhận lại các tài sản gồm 01 chiếc điện thoại Nokia màu xanh ngọc, model 1010, số IMEI 356-005-080-434-912; 01 chiếc sim điện thoại số thuê bao 097342359; số tiền 4.000.000 đồng. Anh Th yêu cầu các bị cáo bồi thường thêm trị giá chiếc điện thoại Samsung Galaxy J7 Plus là 2.096.000 đồng do V bán điện thoại này cho anh T, anh T bán cho người khác không thu hồi được và số tiền 10.350.000 đồng các bị cáo đã tiêu xài cá nhân từ số tiền lấy trộm của anh.

Đi với anh Nguyễn Văn T, Lê Văn T là người thu mua những chiếc điện thoại của Lê Quang V do không biết đó là tài sản do V lấy trộm mà có, nên nên Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Biên Hòa không xử lý.

Đi với Ngô Hoài Ng, Trương Ngọc Th, Trương Minh S và Châu Thị Thùy Nh xét thấy không liên quan đến vụ án nên nên Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Biên Hòa không xử lý.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Điều tra viên; Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng quy định pháp luật.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Tại phiên tòa các bị cáo Lê Quang V và Châu Hồng Ph đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội theo như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa đã truy tố. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người làm chứng, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Qua đó, đã có đủ căn cứ kết luận:

Ngày 29/5/2019 tại nhà số A3/328D khu phố 3, phường Tân Vạn, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, Lê Quang V có hành vi lén lút chiếm đoạt của chị Trần Thị Ngọc M 01 chiếc điện thoại Samsung Galaxy J7 Plus trị giá 3.594.000 đồng và ngày 09/6/2019 tại nhà số A4/37A khu phố 4, phường Tân Vạn, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, Lê Quang V có hành vi lén lút chiếm đoạt của anh Đặng Hoàng Th 01 chiếc điện thoại Samsung Galaxy J7 Plus màu trắng trị giá 2.096.000 đồng, 01 chiếc điện thoại nhãn hiện Nokia 1010 trị giá 200.000 đồng cùng số tiền 14.350.000 đồng. Tổng giá trị tài sản Lê Quang V lén lút chiếm đoạt của chị Trần Thị Ngọc M và anh Đặng Hoàng Th là 20.240.000 đồng.

Châu Hồng Ph biết rõ tài sản do Lê Quang V lấy trộm mà có, những vẫn cùng V đi bán chiếc điện thoại Samsung Galaxy J7 Plus của anh Thông và tiêu xài vào mục đích cá nhân số tiền 2.350.000 đồng từ số tiền V lấy trộm của anh Thông.

Hành vi nêu trên của Lê Quang V đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015. Hành vi nêu trên của Châu Hồng Ph đã phạm vào tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 điều 323 Bộ luật hình sự năm 2015.

[2.2] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự các bị cáo thì thấy: Các bị cáo đều là người có nhân thân xấu vì bị cáo V đang có 01 tiền sự về hành vi “Trộm cắp tài sản”, còn bị cáo Ph đang có 01 tiền sự về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Bị cáo V thực hiện hành vi phạm tội vào ngày 29/5/2019 và ngày 09/6/2019 nên phải chịu tình tiết tăng nặng “Phạm tội 02 lần trở lên”. Bị cáo Ph không có tình tiết tăng nặng. Trong giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”, bị cáo Ph còn được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”.

[3] Về xử lý vật chứng: 01 chiếc điện thoại Samsung Galaxy J7 Plus màu đen;

01 cây móc phơi đồ bằng nhôm; 01 chiếc điện thoại Nokia màu xanh ngọc, model 1010, số IMEI 356-005-080-434-912; 01 chiếc sim điện thoại số thuê bao 097342359; số tiền 4.000.000 đồng; 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu dream biển số 60M8-8063, Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Biên Hòa đã trả lại cho bị hại và chủ sở hữu.

01 chiếc điện thoại Samsung màu xám, model SM-J250F/DS; 01 sim điện thoại số thuê bao 0325489518 là tài sản bị cáo Lê Quang V có được từ tiền bán chiếc điện thoại Samsung Galaxy J7 Plus lấy trộm của anh Th. Nên căn cứ khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa bị cáo Lê Quang V và Châu Hồng Ph đồng ý bồi thường thiệt hại cho anh Đặng Hoàng Th số tiền 12.446.000 đồng gồm trị giá chiếc điện thoại Samsung Galaxy J7 Plus là 2.096.000 đồng và số tiền 10.350.000 đồng. Nên cần ghi nhận sự tự nguyện bồi thường của các bị cáo.

[5] Về án phí: Buộc mổi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 311.150 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

[6] Quan điểm đề nghị về tội danh truy tố đối với các bị cáo của đại diện VKSND thành phố Biên Hòa phù hợp với nhận định của HĐXX nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ vào khoản 1 điều 173 và khoản 1 điều 323 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): Tuyên bố bị cáo Lê Quang V phạm tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo Châu Hồng Ph phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Áp dụng điểm s khoản 1 điều 51, điểm g khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): Xử phạt bị cáo Lê Quang V 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/6/2019, nhưng được trừ đi thời gian bị cáo đã bị tạm giữ trước đó (từ 29/5/2019, đến ngày 06/6/2019).

Áp dụng điểm i, s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): Xử phạt bị cáo Châu Hồng Ph 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo tự nguyện hoặc bị áp giải để chấp hành hình phạt tù, nhưng được trừ đi thời gian bị cáo đã bị tạm giữ trước đó (từ ngày 12/6/2019, đến ngày 20/6/2019).

[2] Về dân sự: Căn cứ điều 584, 585, 587, 589 Bộ luật dân sự năm 2015. Buộc bị cáo Lê Quang V và bị cáo Châu Hồng Ph có nghĩa vụ liên đới bồi thường thiệt hại về tài sản cho anh Đặng Hoàng Th số tiền 12.446.000 đồng (mười hai triệu bốn trăm bốn mươi sáu nghìn đồng).

[3] Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại Samsung màu xám, model SM-J250F/DS; 01 sim điện thoại số thuê bao 0325489518 (Vật chứng hiện đang ở Chi cục thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa theo biên bản về việc giao nhận vật chứng ngày 22/8/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai).

[4] Về án phí: Áp dụng điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc các bị cáo Lê Quang V, Châu Hồng Ph mổi người phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 311.150 đồng (ba trăm mười một nghìn một trăm năm mươi đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

[5] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

269
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 433/2019/HS-ST ngày 23/09/2019 về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

Số hiệu:433/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;