Bản án 432/2019/HNGĐ-ST ngày 21/06/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 6 – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 432/2019/HNGĐ-ST NGÀY 21/06/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 21 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 198/2019/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 3 năm 2019 về tranh chấp Ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 202/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 6 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Tăng Bạc N, sinh năm: 1965; địa chỉ: 137B đường H, phường P, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

- Bị đơn: Bà Lâm Thị C, sinh năm: 1968; địa chỉ: 1570/23/7 đường V, Phường G, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh (có đơn xin vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 19/3/2019, bản tự khai và tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay nguyên đơn, ông Tăng Bạc N trình bày: ông và bà Lâm Thị C tự nguyện chung sống với nhau vào năm 1990 và có đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 39/1990, quyển số 03 do Ủy ban nhân dân Phường S, Quận T cấp ngày 06/6/1990. Khi về chung sống với nhau thì vợ chồng sống hạnh phúc nhưng hơn 03 (ba) năm nay thì tình cảm vợ chồng bắt đầu lạnh nhạt, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung, vợ chồng đã sống ly thân với nhau không ai còn quan tâm đến ai, hiện nay bà C cùng các con đã ra ở riêng. Nay ông xác định không còn tình cảm vợ chồng với bà Lâm Thị C nên ông yêu cầu ly hôn với bà C để ổn định cuộc sống.

Về con chung: ông và bà Lâm Thị C có với nhau 03 (ba) người con chung tên là: Tăng Thúc D, sinh năm: 1991, Tăng Thúc A, sinh năm: 1992, Tăng Tuấn T, sinh năm: 1999, tất cả đều đã trưởng thành.

Về tài sản chung, nợ chung: không có.

Tại bản tự khai ngày 08/5/2019 bị đơn bà Lâm Thị C trình bày: Trong thời gian sống chung vợ chồng tính tình không hợp nhau, bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Vợ chồng bà đã sống ly thân 04 (bốn) năm. Nay bà đồng ý ly hôn với ông Tăng Bạc N Về con chung: bà và ông N có với nhau 03 (ba) người con chung tên là: Tăng Thúc D, sinh năm: 1991, Tăng Thúc A, sinh năm: 1992, Tăng Tuấn T, sinh năm: 1999, tất cả đều đã trưởng thành.

Về tài sản chung, nợ chung: không có.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán và của Hội đồng xét xử kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án đã đảm bảo các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: các đương sự đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật. Việc đưa vụ án ra xét xử đúng theo quy định của pháp luật.

Về việc giải quyết vụ án: ông Tăng Bạc N và bà Lâm Thị C tự nguyện chung sống với nhau vào năm 1990 và có đăng ký kết hôn. Theo lời trình bày của ông N và bà C thì hai vợ chồng tính tình không hợp nhau, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, bà C và ông N đã sống ly thân với nhau 04 (năm) nay. Như vậy, mâu thuẫn giữa ông N và bà C đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Đề nghị, Hội đồng xét xử cho ông N được ly hôn với bà C là phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình. Về con chung: đều đã trưởng thành. Về tài sản chung và nợ chung hai bên khai không có nên không đề cập giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng và thẩm quyền giải quyết:

Ông Tăng Bạc N có đơn xin ly hôn bà Lâm Thị C nên Tòa án nhân dân Quận 6 thụ lý và giải quyết theo khoản 1 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

Nguyên đơn ông Tăng Bạc N có đơn yêu cầu không tiến hành hòa giải, bị đơn bà Lâm Thị C có đơn yêu cầu vắng mặt trong các phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, phiên xét xử. Vì vậy, căn cứ vào khoản 4 Điều 207, khoản 1 Điều 228 Tòa án không tiến hành hòa giải và tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

Theo như lời trình bày của ông Tăng Bạc N và bà Lâm Thị C thì trong thời gian sống chung vợ chồng tính tình không hợp nhau, không tìm được tiếng nói chung, bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Vợ chồng ông N và bà C đã sống ly thân với nhau 04 (bốn) năm nay không ai còn quan tâm đến ai. Nay ông N và bà C đều đồng ý ly hôn.

Hội đồng xét xử xét thấy, Theo Điều 19 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “ Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau…” nhưng giữa vợ chồng ông Tăng Bạc N và bà Lâm Thị C đã không có sự quan tâm, thương yêu và chăm sóc lẫn nhau. Như vậy, mâu thuẫn giữa ông Tăng Bạc N và bà Lâm Thị C đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định cho ông Tăng Bạc N được ly hôn với bà Lâm Thị C là phù hợp theo khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: ông Tăng Bạc N và bà Lâm Thị C có với nhau 03 (ba) người con chung tên là: Tăng Thúc D, sinh năm: 1991, Tăng Thúc A, sinh năm: 1992, Tăng Tuấn T, sinh năm: 1999, tất cả đều đã trưởng thành.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Hai bên khai không có nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[5] Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ ( Ba trăm ngàn đồng) do ông Tăng Bạc N nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 207, khoản 1 Điều 228, khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Điều 26 Luật Thi hành án dân sự.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn 1. Về quan hệ hôn nhân: ông Tăng Bạc N được ly hôn với bà Lâm Thị C Giấy chứng nhận kết hôn số 39/1990, quyển số 03 do Ủy ban nhân dân Phường S, quận T cấp ngày 06/6/1990 không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung: đều đã trưởng thành.

3. Về tài sản chung và nợ chung: hai bên khai không có nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

4. Án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) do ông Tăng Bạc N nộp được khấu trừ vào 300.000đ ( Ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí mà ông N đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0010982 ngày 28/3/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 6. Ông Tăng Bạc N đã nộp đủ án phí.

5. Về quyền kháng cáo: ông Tăng Bạc N được quyền kháng cáo trong hạn 15 ( mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Bà Lâm Thị C được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

6. Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện yêu cầu thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 432/2019/HNGĐ-ST ngày 21/06/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:432/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 6 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;