TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN TRƯỜNG, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 43/2024/HNGĐ-ST NGÀY 08/04/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON GIỮA CHỊ H VÀ ANH N
Ngày 08 tháng 4 năm 2024, tại tại sở Tòa án nhân dân huyện Xuân Trường xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 174/2023/TLST-HNGĐ, ngày 03 tháng 11 năm 2023; về việc: Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2024/QĐXXST-HNGĐ, ngày 04/3/2024, giữa các đương sự:
- Chị Trần Thị H, sinh năm 1977; địa chỉ: xóm H, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định;
- Anh Trần Văn N (tên gọi khác Trần Đức N1), sinh năm 1976; hộ khẩu thường trú: xóm H, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định;
(Tại phiên tòa chị H, anh N1 vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và trong quá trình tố tụng nguyên đơn trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị H và anh Trần Văn N (tên gọi khác là Trần Đức N1) kết hôn tự nguyện có đăng ký tại UBND xã X ngày 10/01/1996. Vợ chồng chung sống hòa thuận một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn do anh nghiện ma túy và đã phải đi chấp hành án do phạm tội về ma túy. Vợ chồng sống ly thân từ cuối năm 2022. Chị xác định tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn nên đề nghị được ly hôn anh N1.
Về con chung: Anh chị có 01 con chung là cháu Trần Duy Q, sinh ngày 27/12/2010 hiện đang ở với chị H. Khi ly hôn chị xin nuôi con không yêu cầu anh cấp dưỡng nuôi con chung cho chị.
Về tài sản, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng: Chị không yêu cầu giải quyết.
Chị có đơn xin giải quyết vắng mặt chị.
Anh Trần Đức N1 có lời khai tại bản tự khai trình bày: Anh và chị Trần Thị Hòa kết h có đăng ký tại UBND xã X ngày 10/01/1996. Vợ chồng chung sống được 25 năm thì mâu thuẫn do anh nghiện ma túy và phạm tội nên phải đi chấp hành hình phạt. Anh xác định tình cảm vợ chồng vẫn còn nên anh không đồng ý ly hôn. Khi ra trại anh sẽ sửa chữa hoàn lương để hàn gắn hạnh phúc gia đình. Về con chung anh chị có 01 con chung là cháu Trần Duy Q, sinh ngày 27/12/2010 hiện đang ở với chị H. Nếu Tòa án giải quyết ly hôn thì anh nhường cho chị H nuôi con và anh không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản công nợ anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Chính quyền địa phương đề nghị Tòa án căn cứ quy định của pháp luật nên giải phóng cho anh chị ly hôn vì khả năng đoàn tụ không còn. Về con chung đề nghị giải quyết theo pháp luật và nguyện vọng chính đáng của con.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:
Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đầy đủ, đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự;
Về nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56; Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho ly hôn giữa chị Trần Thị H và anh Trần Đức N1. Con chung giao cho chị H tiếp tục trực tiếp nuôi cháu Trần Duy Q, sinh ngày 27/12/2010. Chấp nhận chị không yêu cầu anh phải có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con cho chị. Tài sản công nợ chung đương sự không yêu cầu nên không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt. Bị đơn vắng mặt lần 2 nên vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 228 và điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2]. Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Trần Thị H và anh Trần Văn N(tên gọi khác Trần Đức N1) kết hôn tự nguyện và đăng ký tại UBND xã X nên là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng chung sống không hạnh phúc, nguyên nhân là do anh nghiện ma túy, phạm tội nên phải đi chấp hành án. Anh đã chấp hành án xong và trở về địa phương. Chị xin ly hôn, anh không đồng ý. Tuy nhiên một người quyết ly hôn một người không đồng ý thì cơ hội hàn gắn đoàn tụ là khó khăn. Xét thấy cũng nên giải phóng cho anh chị để hai bên tự lo hạnh phúc của bản thân.
[3]. Về con chung: Chị có nguyện vọng nuôi con và không yêu cầu anh cấp dưỡng nuôi. Anh tự nguyện nhường cho chị nuôi con và không cấp dưỡng, cháu Q có nguyện vọng được ở với mẹ, chị cũng có nguyện vọng được nuôi nên giao con cho chị trực tiếp nuôi dưỡng. Anh N1 có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.
[4]. Về tài sản chung anh chị không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.
[5]. Về án phí: chị H phải nộp án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội cùng Danh mục án phí, lệ phí Tòa án kèm theo:
1. Về hôn nhân: Xử cho ly hôn giữa chị Trần Thị H và anh Trần Văn N (tên gọi khác là Trần Đức N1);
2. Về nuôi con chung: Giao chị H tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc con chung Trần Duy Q, sinh ngày 27/12/2010. Chấp nhận chị không yêu cầu anh cấp dưỡng nuôi con cho chị. Anh N1 có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị H phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp tại biên lai thu số 0000005 ngày 03/11/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuân Trường.
4. Về quyền kháng cáo: Chị H và anh N1 có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án.
Bản án 43/2024/HNGĐ-ST về ly hôn, tranh chấp nuôi con giữa chị H và anh N
Số hiệu: | 43/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Xuân Trường - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 08/04/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về