TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HIỆP HÒA, TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 43/2021/HS-ST NGÀY 24/06/2021 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
Ngày 24 tháng 6 năm 2021 tại Hội trường Ủy ban nhân dân huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm (lưu động) công khai vụ án hình sự thụ lý số: 52/2021/TLST-HS ngày 11 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 47/2021/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 6 năm 2021 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Nguyễn Văn H, sinh ngày tháng năm 1980; tại xã H, huyện H, tỉnh B; Nơi cư trú: Thôn B, xã H, huyện H, tỉnh B; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá (học vấn): Không; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn C, sinh năm 1947 và bà: Tạ Thị P, sinh năm 1955; có vợ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1982 và có 02 con, con lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2007; tiền án: Không, tiền sự: Không; nhân thân: Không; bị bắt, tạm giữ từ ngày 29/5/2021 đến ngày 03/6/2021 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện bị cáo tại ngoại- Có mặt.
2. Họ và tên: Nguyễn Văn H, sinh ngày tháng năm 1989; tại xã H, huyện H, tỉnh B; Nơi cư trú: Thôn B, xã H, huyện H, tỉnh B; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá (học vấn): Lớp 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn C, sinh năm 1947 và bà: Tạ Thị P, sinh năm 1955; có vợ: Nguyễn Thị N, sinh năm 1997 và có 03 con, con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2017; tiền án: Không, tiền sự: Không; nhân thân: Không; bị bắt, tạm giữ từ ngày 29/5/2021 đến ngày 03/6/2021 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện bị cáo tại ngoại- Có mặt.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Dương Văn V, sinh năm 1985; TQ: Thôn Đ, xã N, huyện H, tỉnh B- Có mặt.
2. Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1994; TQ: Thôn H, xã Đ, huyện H, tỉnh B- Có mặt.
3. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1979; TQ: Thôn B, xã H, huyện H, tỉnh B- Có mặt.
4. Công an xã H, huyện H, do ông Dương Văn V – Trưởng Công an xã đại diện- Có mặt.
5. Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 2004; TQ: Thôn B, xã H, huyện H, tỉnh B; người đại diện của anh H: bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1982 (là mẹ đẻ anh H)- Có mặt.
- Người tham gia tố tụng khác:
+ Người làm chứng:
1. Ông Nguyễn Hồng K, sinh năm 1996; TQ: Thôn A, xã H, huyện H, tỉnh Bắc Giang- Có đơn xin vắng mặt.
2. Ông Tạ Quang D, sinh năm 1990; TQ: Thôn Vạn Thạch, xã H V, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang- Có đơn xin vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Thực hiện Quyết định số 61/QĐ-UBND ngày 19/5/2021 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H về việc thành lập Tổ tuần tra, kiểm soát phòng chống dịch, bệnh Covid- 19 trên địa bàn xã H và Kế hoạch tuần tra vũ trang, kiểm tra số 02/KH-CAX ngày 28/5/2021 của Công an xã H; Khoảng 17 giờ ngày 29/5/2021, Tổ tuần tra Công an xã Hthành viên gồm các ông: Dương Văn V– Trưởng Công an xã, Tạ Quang D– Phó trưởng Công an xã và Nguyễn Văn L– Công an viên xã H tiến hành tuần tra tại khu vực đồi tập lái thuộc thôn B, xã H, huyện H. Quá trình tuần tra Tổ công tác phát hiện đối tượng Nguyễn Văn H, sinh năm 2005, trú tại xóm Tiến Thịnh, thôn Bảo An, xã H(là đối tượng đang trong thời gian bị áp dụng biện pháp cách ly y tế tại nhà theo Quyết định số 36 ngày 15/5/2021 của Ban Chỉ đạo phòng, chống dịch Covid-19 xã H An) có hành vi vi phạm ra khỏi nhà không đeo khẩu trang, đang thả diều tại cánh đồng Chùa Tăng thuộc xóm Tiến Thịnh, thôn Bảo An, xã H gần đường dây lưới điện cao áp, nên ông Tạ Quang D đã yêu cầu Hiệp kéo diều xuống về trụ sở Công an xã H để làm việc. Biết được việc Hiệp bị thu giữ diều nên H Văn Tuấn, sinh năm 2003 trú tại thôn B, xã H, huyện H (là anh họ H) gọi điện thoại cho Nguyễn Văn H, sinh năm 1989 ở cùng thôn (là chú ruột H) thông báo cho H biết việc H bị thu diều. Sau khi được Tuấn thông báo, H chạy sang nhà anh ruột là Nguyễn Văn H, sinh năm 1980 (bố đẻ H) nói với H “ra xem ai lấy diều của H”. Vào thời điểm này, cả H và H đều là đối tượng tiếp xúc gần với F1, đang bị áp dụng biện pháp cách ly y tế tại nhà theo các Quyết định số 36 ngày 15/5/2021 và số 55 ngày 28/5/2021 của Ban Chỉ đạo phòng, chống dịch Covid-19 xã H (theo H và H khai, lúc này cả hai người đều chưa biết cụ thể ai là người thu diều của H cho nên có ý định chạy ra xem cụ thể sự việc thế nào). Sau đó, H không đeo khẩu trang, chạy luôn ra khu vực cánh đồng Chùa Tăng nơi Hiệp đang thả diều còn H chạy về nhà lấy khẩu trang rồi chạy theo sau. Trên đường chạy ra cánh đồng, H cầm theo 01 đoạn gậy tre có chiều dài 01m, đường kính 05cm, 01 đầu có vết vỡ (khai nhặt ở vị trí ruộng lạc), khi chạy đến đoạn đường bê tông gần cổng nhà chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1979 ở cùng thôn thì nhìn thấy ông Nguyễn Văn L là Công an viên (chính quy) xã H mặc trang phục Cảnh sát đang cầm trên tay cuộn dây diều kéo theo chiếc diều của H, còn Hiệp đang đứng gần đó xin lại diều. H tiến lại gần thắc mắc về việc Công an thu giữ diều của H. Lúc này, lực lượng Công an xã có mặt tại đó đã giải thích cho H biết việc Công an xã đang thực hiện nhiệm vụ; tuy nhiên, H vẫn cầm gậy tre giơ lên đuổi đánh ông L. Đúng lúc này, Nguyễn Văn H chạy gần đến nơi, phát hiện ở sân nhà chị H có 01 con dao phay chiều dài 45cm, chuôi bằng gỗ dài 12,5cm, bản rộng nhất của dao là 7,5cm, H đã cầm con dao giơ lên tấn công về phía ông Nguyễn Văn L khiến ông L phải bỏ chiếc diều xuống rồi lùi lại phía sau để tự vệ. Được tổ công tác giải thích là đang thực hiện nhiệm vụ nhưng H không dừng lại mà vẫn tiếp tục cầm dao đuổi theo ông L một đoạn, sau đó H quay lại một tay cầm dao, một tay cầm chiếc diều đi về phía nhà chị H. Sau đó, được mọi người có mặt can ngăn và lực lượng Công an xã đã khống chế, tước được hung khí của hai đối tượng. Công an xã Hđã lập biên bản vụ việc và tạm giữ tang vật gồm: 01 chiếc diều, 01 con dao (loại dao phay), 01 đoạn gậy tre và 01 cuộn dây cước. Cùng ngày, Công an xã Hđã chuyển toàn bộ tài liệu, hồ sơ cùng 02 đối tượng đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hiệp Hòa để điều tra theo thẩm quyền. Cùng ngày, cơ quan điều tra ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với H và H.
Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Văn H và Nguyễn Văn H thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu ở trên. H và H đều thừa nhận khi chạy ra đến nơi, thấy ông Nguyễn Văn L mặc trang phục Cảnh sát đang cầm cuộn dây kéo theo chiếc diều và được tổ công tác giải thích thì biết ông L đang thực hiện nhiệm vụ thu giữ diều của H; tuy nhiên, cả hai vẫn xông vào tấn công ông L với mục đích cản trở không cho tổ công tác làm nhiệm vụ.
Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hiệp Hòa đã thu giữ 02 đoạn video chứa hình ảnh, âm thanh liên quan đến vụ việc trên do ông Nguyễn Hồng K, sinh năm 1996 trú tại thôn A, xã H, huyện H giao nộp. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hiệp Hòa tiến hành cho Nguyễn Văn H và Nguyễn Văn H xem lại 02 đoạn video; kết quả: H và H thừa nhận người đàn ông mặc áo cộc màu xanh, quần đùi màu đen, chân không đi dép là H; người đàn ông mặc áo phông đen cộc tay, quần sooc bò màu xanh, trên tay cầm 01 con dao dạng dao phay là H đang đuổi theo ông Nguyễn Văn L – Công an viên xã H.
Về trách nhiệm dân sự: Ông Nguyễn Văn L và đại diện Công an xã H không có yêu cầu gì.
Từ hành vi chống người thi hành công vụ nêu trên của các bị cáo: Nguyễn Văn H và Nguyễn Văn H, tại bản cáo trạng số 55/CT-VKS-HH ngày 11/6/2021, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang đã truy tố các bị cáo ra trước Toà án nhân dân huyện Hiệp Hòa để xét xử về tội “Chống người thi hành công vụ”, theo khoản 1 Điều 330 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa công khai sơ thẩm, các bị cáo thừa nhận đã có hành vi dùng gậy và dùng dao tấn công lực lượng Công an xã H đang làm nhiệm vụ nhằm lấy lại chiếc diều mà Công an xã vừa thu giữ của anh Nguyễn Văn H là con trai bị cáo H như cáo trạng truy tố và nội dung vụ án đã tóm tắt nêu trên. Các bị cáo rất hối hận về việc làm của mình nên đã thành khẩn khai báo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt tù cho các bị cáo.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Hòa giữ nguyên quan điểm như cáo trạng truy tố các bị cáo về tội “Chống người thi hành công vụ”, theo khoản 1 Điều 330 của Bộ luật hình sự. Sau khi phân tích tính chất vụ án, các tình tiết tặng nặng, giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố các bị cáo: Nguyễn Văn H và Nguyễn Văn H phạm tội “Chống người thi hành công vụ”.
1. Căn cứ khoản 1 Điều 330; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật hình sự; Xử phạt:
Nguyễn Văn H từ 12 tháng tù đến 14 tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”; Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án, được trừ đi số ngày đã tạm giữ bị cáo (từ ngày 29/5/2021 đến ngày 03/6/2021).
2. Căn cứ khoản 1 Điều 330; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 65 của Bộ luật hình sự; Xử phạt:
Nguyễn Văn H từ 10 tháng tù đến 12 tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 20 tháng đến 24 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo: Nguyễn Văn H cho UBND xã H, huyện H, tỉnh B giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
- Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) con dao phay tổng chiều dài 45cm, chuôi dao làm bằng gỗ, bản dộng nhất của dao là 7,5cm (đã được niêm phong); 01 (một) đoạn tre khô, chiều dài 1m, đường kính 05cm, 01 đầu có vết vỡ (đã được niêm phong); 01 (một) chiếc diều có khung làm bằng tre, khâu vải bóng màu đen, xung quanh buộc bằng dây màu trắng, phía sau gắn dàn sáo màu đen gồm 07 chiếc sáo to, nhỏ khác nhau làm bằng tre nứa, chiếc diều rộng 79cm, dài 2,53cm, tổng chiều cao 1,70m, phía dưới diều có hai cánh đuôi rộng (82x52)cm mỗi bên; 01 (một) cuộn dây bằng cước màu trắng được quấn quanh thanh tre dài 55cm, đường kính 02cm- là vật chứng của vụ án và không còn giá trị sử dụng.
- Về án phí: Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban tH vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án ; Điều 136 của Bộ luật hình sự: Các bị cáo: Nguyễn Văn H và Nguyễn Văn H mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện theo các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Việc truy tố của Viện kiểm sát đối với bị cáo và mức án do kiểm sát viên đề nghị là có căn cứ và đúng pháp luật, phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội và nhân thân của các bị cáo.
[2]. Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai tại Cơ quan điều tra về thời gian, địa điểm, quá trình các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội. Tại phiên tòa đã xác định rõ khoảng 17 giờ 30 phút ngày 29/5/2021, tại khu vực thuộc xóm Tiến Thịnh, thôn B, xã H, huyện H; trong khi tổ công tác Công an xã H đang thực hiện nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát phòng chống dịch bệnh Covid-19, phát hiện, xử lý Nguyễn Văn H là đối tượng cách ly tại nhà theo Quyết định của Ban chỉ đạo phòng chống dịch xã Hcó hành vi vi phạm, ra khỏi nhà và không đeo khẩu trang, thả diều gần đường dây lưới điện cao áp vi phạm Nghị định số 14/2014/NĐ-CP ngày 26/02/2014 của Chính phủ và Chỉ thị số 05/CT-UBND ngày 29/4/2021 của UBND tỉnh Bắc Giang; Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn H đã có hành vi dùng vũ lực, trong đó H dùng gậy tre, H dùng dao phay đe dọa, tấn công ông Nguyễn Văn L– Công an viên xã H là thành viên Tổ công tác, cản trở việc Tổ công tác của Công an xã H thi hành công vụ. Như vậy, Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ kết luận cho các bị cáo Nguyễn Văn H và Nguyễn Văn H phạm tội “Chống người thi hành công vụ”, theo khoản 1 Điều 330 của Bộ luật hình sự.
[2].1. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính của Nhà nước, xâm phạm đến việc thực hiện nhiệm vụ của người đang thi hành công vụ, gây hoang mang dao động và làm bất bình trong quần chúng nhân dân. Đặc biệt là trên địa bàn tỉnh Bắc Giang trong thời gian này đang có nhiều người nhiễm bệnh dịch Covid-19, là tâm dịch của cả nước, toàn bộ hệ thống chính trị, chính quyền và nhân dân trên địa bàn tỉnh phải dồn toàn lực để chống dịch, Bộ y tế cũng như các đoàn cán bộ y tế ở các tỉnh trong cả nước phải chi viện cho Bắc Giang trong việc chống dịch covid- 19; huyện Hiệp Hòa là một trong các huyện phải cách ly xã hội theo Chỉ thỉ số 16 của Thủ tướng Chính phủ; các bị cáo và thành viên trong gia đình đều đang trong thời gian cách ly y tế phòng chống dịch Covid-19 tại nhà theo quyết định cách ly của Ban chỉ đạo phòng chống dịch xã H đã tự ý ra khỏi nhà, vi phạm nghiêm trọng đối với các quy định về phòng chống dịch Covid-19 của Nhà nước. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm các bị cáo để có tác dụng giáo dục riêng và góp phần ngăn đe phòn ngừa chung.
[2].2. Xét về vai trò các các bị cáo trong vụ án thấy rằng: Trong vụ án này các bị cáo đều trực tiếp thực hiện hành vi tấn công ông Nguyễn Văn L– Công an viên xã H là thành viên Tổ công tác, cản trở việc Tổ công tác của Công an xã H thi hành công vụ nhằm mục đích lấy lại chiếc diều do anh H là con trai bị cáo H thả gần đường dây diện cao áp vi phạm Nghị định số 14/2014/NĐ-CP ngày 26/02/2014 của Chính phủ và Chỉ thị số 05/CT-UBND ngày 29/4/2021 của UBND tỉnh Bắc Giang đã bị tổ công tác thu giữ. Xét về ý thức chấp hành việc phòng chống dịch Covid-19 thì bị cáo H là bố đẻ của anh Nguyễn Văn H cũng thuộc diện phải cách ly đã không quản lý con trong thời gian phải cách ly để con vi phạm cách ly y tế, thả diều tại cánh đồng gần lưới điện cao áp vi phạm các quy định về hành lang an toàn điện của Nhà nước. Bị cáo đi ra khỏi nhà cũng là vi phạm cách ly y tế, còn không đeo khẩu trang theo quy định, đồng thời bị cáo H còn là anh trai của bị cáo H nhưng không làm gương cho mọi người trong gia đình về việc chấp hành pháp luật, biết rõ Công an xã H đang thi hành nhiệm vụ đã có hành vi dùng gậy tre tấn công ông Nguyễn Văn L trước dẫn đến bị cáo H cũng dùng dao tấn công ông L ngay sau đó nên bị cáo H phải chịu trách nhiệm hình sự với vai trò lớn hơn so với bị cáo H. Xét về nhân thân: Các bị cáo đều có đầy đủ nhận thức và ý thức pháp luật, hiểu rõ việc chống người thi hành công vụ là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội, vì vậy, cần phải xử lý nghiêm các bị cáo. Tuy nhiên, xét các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, sau khi phạm tội đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải. Do đó, cũng cần xem xét giảm nhẹ cho các bị cáo một phần khi lượng hình.
Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy: Đối với bị cáo Nguyễn Văn H cần phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian đủ để các bị cáo cải tạo trở thành công dân có ích cho xã hội. Đối với các bị cáo Nguyễn Văn H có đủ điều kiện để được hưởng án treo theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao. Vì vậy, không cần thiết phải cách ly bị cáo H ra ngoài xã hội cũng đủ điều kiện để cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt.
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự.
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
[2].3. Về vật chứng của vụ án: 01 (một) con dao phay tổng chiều dài 45cm, chuôi dao làm bằng gỗ, bản dộng nhất của dao là 7,5cm (đã được niêm phong); 01 (một) đoạn tre khô, chiều dài 1m, đường kính 05cm, 01 đầu có vết vỡ (đã được niêm phong); 01 (một) chiếc diều có khung làm bằng tre, khâu vải bóng màu đen, xung quanh buộc bằng dây màu trắng, phía sau gắn dàn sáo màu đen gồm 07 chiếc sáo to, nhỏ khác nhau làm bằng tre nứa, chiếc diều rộng 79cm, dài 2,53cm, tổng chiều cao 1,70m, phía dưới diều có hai cánh đuôi rộng (82x52)cm mỗi bên; 01 (một) cuộn dây bằng cước màu trắng được quấn quanh thanh tre dài 55cm, đường kính 02cm- là vật chứng của vụ án và không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.
[2].4. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Về hành vi vi phạm quy định về cách ly y tế phòng chống dịch Covid-19 theo Quyết định cách ly y tế tại nhà của Ban chỉ đạo phòng chống dịch xã Hvà ra ngoài không đeo khẩu trang của các đối tượng: Ngày 08/6/2021, Trưởng Công an huyện Hiệp Hòa đã ra các Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 17/QĐ-XPHC, 18/QĐ-XPHC, 19/QĐ-XPHC lần lượt đối với Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn H và Nguyễn Văn H bằng hình thức phạt tiền (đối với H là 9.500.000 đồng, H là 7.500.000 đồng, Hiệp là 4.000.000 đồng). Đến nay H và Hiệp đã chấp hành xong việc nộp phạt.
Về hành vi thả diều gần các công trình lưới điện cao áp của Nguyễn Văn H: Do chưa gây ra sự cố lưới điện nên không xem xét, xử lý.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố các bị cáo: Nguyễn Văn H và Nguyễn Văn H phạm tội “Chống người thi hành công vụ”.
1. Căn cứ khoản 1 Điều 330; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật hình sự; Xử phạt:
Nguyễn Văn H 12 (Mười hai) tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”; Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án, được trừ đi số ngày đã tạm giữ bị cáo (từ ngày 29/5/2021 đến ngày 03/6/2021).
2. Căn cứ khoản 1 Điều 330; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 65 của Bộ luật hình sự; Xử phạt:
Nguyễn Văn H 10 (Mười) tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 20 (Hai mươi) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo: Nguyễn Văn H cho UBND xã H, huyện H, tỉnh B giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
- Về vật chứng: Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 1 và khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) con dao phay tổng chiều dài 45cm, chuôi dao làm bằng gỗ, bản dộng nhất của dao là 7,5cm (đã được niêm phong); 01 (một) đoạn tre khô, chiều dài 1m, đường kính 05cm, 01 đầu có vết vỡ (đã được niêm phong); 01 (một) chiếc diều có khung làm bằng tre, khâu vải bóng màu đen, xung quanh buộc bằng dây màu trắng, phía sau gắn dàn sáo màu đen gồm 07 chiếc sáo to, nhỏ khác nhau làm bằng tre nứa, chiếc diều rộng 79cm, dài 2,53cm, tổng chiều cao 1,70m, phía dưới diều có hai cánh đuôi rộng (82x52)cm mỗi bên; 01 (một) cuộn dây bằng cước màu trắng được quấn quanh thanh tre dài 55cm, đường kính 02cm- là vật chứng của vụ án và không còn giá trị sử dụng.
- Về án phí: Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban tH vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án ; Điều 136 của Bộ luật hình sự: Các bị cáo: Nguyễn Văn H và Nguyễn Văn H mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Báo cho bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 43/2021/HS-ST về tội chống người thi hành công vụ
Số hiệu: | 43/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lục Ngạn - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/06/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về