TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG
BẢN ÁN 43/2021/HS-ST NGÀY 28/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 28 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 46/2021/TLST- HS ngày 13 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2021/QĐXXST- HS ngày 16/4/2021, đối với bị cáo:
Trịnh C; sinh ngày 22/8/1981 tại thành phố Tuyên Quang Nơi cư trú: Tổ 2, phường H, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Trình độ văn hóa: 01/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do;
Con ông Trịnh T và bà Đoàn G; có vợ là Trần H (đã ly hôn) và có 01 con. Tiền án: Không.
Tiền sự:
- Ngày 07/01/2019, Công an phường H, thành phố T ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy bằng hình thức phạt tiền (750.000đồng - chưa nộp phạt);
- Ngày 24/4/2019, Công an phường H, thành phố T ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy bằng hình thức phạt tiền (1.000.000đồng - chưa nộp phạt);
- Ngày 23/12/2019, Công an phường H, thành phố T ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy bằng hình thức phạt tiền (1.000.000đồng - chưa nộp phạt);
Trong 03 lần xử phạt hành chính trên, Công an phường đều ra văn bản đôn đốc đối với bị cáo nhưng bị cáo chưa nộp phạt.
Nhân thân:
- Ngày 17/5/2017, Công an phường H, thành phố T ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy bằng hình thức phạt tiền (750.000đồng);
- Ngày 28/10/2015, Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang xử phạt 02 năm 03 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma tuý (đã chấp hành xong);
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 31/12/2020, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang. Có mặt tại phiên toà.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19 giờ ngày 29/12/2020 Trịnh C đi một mình đến khu vực đầu cầu T thuộc phường T, thành phố T với mục đích tìm mua ma tuý về sử dụng cho bản thân. Đến nơi, C hỏi và mua được của một người đàn ông không quen biết 01 gói ma tuý (loại Heroine) gói bằng nilon màu trắng với số tiền 1.000.000 đồng. Sau khi mua đượcgói Heroine, C cất vào túi áo đang mặc rồi đi về nhà, C lấy một ít Heroine trong gói vừa mua được ra để sử dụng bằng hình thức đốt hít vào cơ thể. Số Heroine còn lại C chia thành 11 gói nhỏ, gói bên ngoài bằng giấy lịch; C cất 01 gói vào ổ điện trong phòng ngủ, 01 gói cất dưới đệm trong phòng ngủ, 01 gói cất ở túi áo đang mặc và 08 gói cho vào túi nilon màu trắng trên mép có viền màu đỏ cất dấu trên nắp máy giặt dưới bếp. Sáng ngày 30/12/2020 C lấy 01 gói Heroine cất trong túi áo đang mặc ra sử dụng bằng hình thức đốt hít vào cơ thể. Đến 9 giờ ngày 31/12/2020 Cơ quan CSĐT Công an thành phố Tuyên quang tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở, đồ vật, tài sản đối với Trịnh C; kết quả thu giữ: 10 gói nhỏ Heroine được gói ngoài bằng giấy lịch (trong đó: 01 gói thu trên ổ điện trong phòng ngủ, 01 gói thu dưới đệm trong phòng ngủ, 08 gói thu trên nắp máy giặt dưới bếp).
Tại Kết luận giám định số 92/KLGĐHS ngày 04/01/2021 của phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Tuyên Quang kết luận: Mẫu vật gửi giám định (10 gói chất bột màu trắng thu giữ của Trịnh C là chất ma tuý, loại Heroine (Hêrôin); khối lượng 0,684g (không phẩy sáu tám tư gam).
Tại bản Cáo trạng số 49/CT-VKSTP ngày 12 tháng 4 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang đã truy tố bị cáo Trịnh C về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Kết thúc phần tranh luận tại phiên toà, đại diện VKSND thành phố Tuyên Quang trình bày luận tội giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c, khoản 1, Điều 249; điểm s, khoản 1, Điều 51; Điều 38; Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo từ 01 năm 04 tháng đến 01 năm 07 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam 31/12/2020.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Áp dụng: Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
- Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong trên các mép dán có chữ ký của bị cáo, chữ ký của các thành phần tham gia và hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong có Heroine là mẫu giám định hoàn lại.
- Trả lại cho bị cáo 01 Giấy chứng minh nhân dân mang tên Trịnh C;
Tình trạng vật chứng thể hiện như trong biên bản giao nhận vật chứng, tài sản giữa cơ quan CSĐT Công an thành phố Tuyên Quang và cơ quan Thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang ngày 14/4/2021.
Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo cho bị cáo theo quy định của pháp luật.
Bị cáo không trình bày lời bào chữa, nhất trí với luận tội của đại diện VKSND thành phố Tuyên Quang. Bị cáo chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện nhiệm vụ đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên toà Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Bị cáo không khiếu nại, thắc mắc gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Về tội danh: Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Bị cáo khai nhận: Bản thân là người nghiện chất ma tuý, loại ma tuý bị cáo thường sử dụng là Heroine. Vì vậy, ngày 29/12/2020 bị cáo đã đi tìm mua Heroine về nhà, lấy ra một ít sử dụng luôn, còn lại chia thành 11 gói nhỏ, với mục đích để sử dụng dần cho bản thân. Ngày 30/12/2020bị cáo đã sử dụng 01 gói nhỏ, còn lại 10 gói nhỏ bị cáo cất trong nhà và đã bị cơ quan Công an thu giữ vào hồi 9 giờ ngày 31/12/2020. Bị cáo thừa nhận kết luận giám định số Heroinethu giữ của bị cáo có khối lượng 0,684g là khách quan, chính xác. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản khám xét, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập lưu trong hồ sơ vụ án. Bị cáo khai bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuyên Quang truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý là đúng người, đúng tội, không oan. Như vậy, Hội đồng xét xử thấy có đủ căn cứ kết luận bị cáo Trịnh C phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 249 của Bộ luật hình sự.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt:
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báovà tỏ rõ thái độ ăn năn hối cải nên áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo.
- Về hình phạt: Xét thấy bị cáo có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý và đã bị xét xử về tội Mua bán trái phép chất ma tuý nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân mà vẫn cố ý tiếp tục phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến việc quản lý độc quyền về chất ma tuý của nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương nên cần áp dụng hình phạt tù tương xứng để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.
Quá trình điều tra và tại phiên toà xác định bị cáo không có tài sản gì và không có công việc, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[4] Trong vụ án này còn có người đàn ông theo bịcáo khai là người bán ma tuý cho bị cáo nhưng không xác định được tên, tuổi, địa chỉ nên không có căn cứ xem xét, xử lý.
Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý của bị cáo vào ngày 29 và 30/12/2020, Phòng CSĐT tội phạm về ma tuý Công an tỉnh Tuyên Quang đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, HĐXX thấy như vậy là phù hợp.
[5] Về vật chứng: Đối với 01 phong bì niêm phong trên các mép dán có chữ ký của bị cáo, chữ ký của các thành phần tham gia và hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong có Heroine là mẫu giám định hoàn lại. Đây là vật Nhà nước cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu huỷ.
Đối với 01 Giấy chứng minh nhân dân mang tên Trịnh C, đây là giấy tờ cá nhân của bị cáo nên trả lại cho bị cáo.
Tình trạng vật chứng thể hiện như trong biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan CSĐT Công an thành phố Tuyên Quang và cơ quan Thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang ngày 14/4/2021.
[6] Về án phí và quyền kháng cáo:
- Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
- Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm theo quy định tại Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm c, khoản 1, Điều 249; điểm s, khoản 1, Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Trịnh C phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.
Xử phạt: Bị cáo Trịnh C 01 năm 05 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam 31/12/2020.
2. Căn cứ: Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
- Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong trên các mép dán có chữ ký của bị cáo, chữ ký của các thành phần tham gia và hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong có Heroine là mẫu giám định hoàn lại.
- Trả lại cho bị cáo 01 Giấy chứng minh nhân dân mang tên Trịnh C;
Tình trạng vật chứng thể hiện như trong biên bản giao nhận vật chứng, tài sản giữa cơ quan CSĐT Công an thành phố Tuyên Quang và cơ quan Thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang ngày 14/4/2021.
3. Căn cứ: Các Điều 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Buộc bị cáo Trịnh C phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng)án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 43/2021/HS-ST ngày 28/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý
Số hiệu: | 43/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/04/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về