Bản án 43/2021/HS-ST ngày 28/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SỐP CỘP, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 43/2021/HS-ST NGÀY 28/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La; xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 45/2021/TLST-HS ngày 09 tháng 4 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 43 /QĐXXST-HS ngày 19/4/2021 đối với bị cáo:

Lò Văn D, tên gọi khác: Không, sinh năm 1993, tại huyện S, tỉnh Sơn La.

Nơi cư trú: Bản N, xã M, huyện S, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng Trọt; trình độ học vấn: Lớp 6/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lò Văn P và bà Lò Thị C, vợ, con: Chưa có; tiền án; tiền sự: không có; nhân thân; bị bắt tạm giam từ ngày 20/01/2021 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 20/01/2021, Lò Văn D từ nhà ở bản N xã M đi đến bản Huổi Ca, xã Mường Và gặp một người không quen biết mua được 06 viên nén màu hồng với số tiền 200.000 đồng, mua được ma túy bị cáo cất giấu vào túi áo khoác đang mặc trên người rồi đi về, thì gặp tổ công tác Công an huyện Sốp Cộp kiểm tra phát hiện đã lập biên bản quả tang và niêm phong vật chứng là 6 viên ma túy.

Hồi 16 giờ cùng ngày 21/01/2021 Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, thành lập hội đồng mở niêm phong, cân tịnh, lấy mẫu giám định, xác định khối lượng vật chứng, tách bì, cân tịnh 06 viên nén màu hồng có tổng khối lượng 0,62 gam, đã sử dụng hết làm mẫu giám định ký hiệu D.

Bản kết luận giám định số 403 ngày 25/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu D là ma túy, loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu giám định là 0,62 gam; Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,62 gam; loại Methamphetamine.

Bản Cáo trạng số 23/CT-VKSSC ngày 08 tháng 4 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, truy tố bị cáo Lò Văn D về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, sau khi trình bày luận tội vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự;

xử phạt bị cáo Lò Văn D từ 14 tháng đến 18 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng: Tịch thu để tiêu hủy: 01(một) phong bì thư đã niêm phong; bên trong phong bì có chứa 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở, 01 mảnh ni lon màu hồng; 01 phong bì thư đã niêm phong kín bên trong có phong bì niêm phong mẫu gửi giám định đã bóc mở + 01 túi ni lon màu trắng chứa chất bột màu hồng ký hiệu D có khối lượng 0,48 gam là ma túy, loại Methamphetamine Về án phí: Miễn khoản án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Về nguồn gốc ma túy; bị cáo D khai, mua của một người không biết tên và địa chỉ, ngoài lời khai của bị cáo ra không còn căn cứ khác chứng minh, nên không có căn cứ xử lý trong vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Sốp Cộp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]Về chứng cứ xác định tội danh:

Tại hồ sơ phiên tòa bị cáo Lò Văn D khai nhận ngày 20/01/2021 bị cáo đã mua được 06 viên ma túy tổng hợp với số tiền 200.000 đồng của một người không quen biết, thì bị Công an huyện Sốp Cộp phát hiện bắt quả tang đã thu giữ số ma túy có tổng khối lượng là 0,62 gam; Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang hồi 21 giờ 20 phút ngày 20 tháng 01 năm 2021; Biên bản cân tịnh vật chứng, kết luận giám định số 403, ngày 25/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La, vật chứng của vụ án là 0,62 gam ma túy, loại Methamphetamine.

Từ những căn cứ nêu trên, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lò Văn D phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

[3] Xét về tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

Hành vi tàng trữ 0,62 gam ma túy của bị cáo là vi phạm pháp luật, vi phạm chính sách độc quyền của nhà nước về quản lý các chất ma túy, ảnh hưởng đến trật tự trị an trên địa bàn, là nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác, bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được Tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, nhằm răn đe giáo dục bị cáo và để phòng ngừa chung.

[4] Về nhân thân: Trước khi phạm tội bị cáo có nhân thân tốt, số lượng ma túy không lớn.

[5] Về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tình tiết tăng nặng: Không có Tình tiết giảm nhẹ: Sau khi phạm tội tại cơ quan Điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo,thể hiện sự ăn năn hối cải, nên được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Với các căn cứ nêu trên. Viện Kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự và đưa ra mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội là có căn cứ đúng với quy định của pháp luật.

[6] Về hình phạt bổ sung:

Ngoài hình phạt chính lẽ ra bị cáo phải bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo qui định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự; xét thấy bị cáo sống phụ thuộc không có điều kiện thi hành, nên không áp dụng.

[7]Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: 01(một) phong bì thư đã niêm phong; bên trong phong bì có chứa 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở, 01 mảnh ni lon màu hồng; 01 phong bì thư đã niêm phong kín bên trong có phong bì niêm phong mẫu gửi giám định đã bóc mở + 01 túi ni lon màu trắng chứa chất bột màu hồng ký hiệu D có khối lượng 0,48 gam là ma túy, loại Methamphetamine cần tịch thu để tiêu hủy.

[8] Về án phí: Nơi cư trú của bị cáo có điều kiện xã hội, kinh tế đặc biệt khó khăn; Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, cần miễn khoản án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[9] Tuyên quyền kháng cáo đối với bị cáo Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1.Về điều luật áp dụng :

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự: Tuyên bố Lò Văn D, phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy

2. Về hình phạt: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự: Xử phạt Lò Văn D 14 (Mười bốn) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 20/01/2021.

3. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng phạt tiền đối với bị cáo.

4. Vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự, điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu để tiêu hủy: 01(một) phong bì thư đã niêm phong; bên trong phong bì có chứa 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở, 01 mảnh ni lon màu hồng; 01 phong bì thư đã niêm phong kín bên trong có phong bì niêm phong mẫu gửi giám định đã bóc mở + 01 túi ni lon màu trắng chứa chất bột màu hồng ký hiệu D có khối lượng 0,48 gam là ma túy, loại Methamphetamine Toàn bộ vật chứng của vụ án theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 12 tháng 4 năm 2021, giữa Chi cục thi hành án dân sự và Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La.

5. Về án phí: Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016 /UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội ; quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn khoản án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Văn D.

6. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (28/4/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 43/2021/HS-ST ngày 28/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:43/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sốp Cộp - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;