TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH SƠN, TỈNH QUẢNG NGÃI
BẢN ÁN 43/2021/HS-ST NGÀY 27/07/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Trong ngày 27 tháng 7 năm 2021 tại Tòa án nhân dân huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 51/2021/TLST- HS ngày 11 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 80/2021/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 6 năm 2021 và Thông báo về việc thay đổi thời gian xét xử vụ án số: 131/TB-TA ngày 07 tháng 7 năm 2021, đối với bị cáo:
Phạm Thị L, sinh năm 1971 tại tỉnh Quảng Ngãi; Nơi cư trú: thôn T, xã B, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Ngọc A(đã chết) và con bà Trần Thị T(đã chết); Chồng: không có; Con: có 02 người con, con lớn nhất sinh năm 2001, con nhỏ nhất sinh năm 2004; Tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ từ ngày 31/01/2021 đến ngày 06/02/2021, thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Anh Phạm Thanh V, sinh năm 1993, vắng mặt không có lý do;
Nơi cư trú: thôn Đ, xã B, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi.
Người làm chứng:
Anh Huỳnh Văn S, sinh năm 1990, vắng mặt không có lý do;
Nơi cư trú: xóm L, thôn X, xã B, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án đƣợc tóm tắt như sau:
Bị cáo Phạm Thị L làm nghề bán ăn uống (bán bánh xèo) tại thôn T, xã B, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi. Hằng ngày, quán ăn của Phạm Thị L có nhiều người thường xuyên đến ăn uống nên Phạm Thị L nảy sinh ý định bán số lô, số đề cho những người đánh số lô, số đề nhằm thu lợi bất chính. Phạm Thị L chuẩn bị giấy, bút để phục vụ việc bán số lô, số đề. Sau khi bán số lô, số đề thì Phạm Thị L tự giữ và chung cho người thắng, không chuyển tịch đề cho người khác.
Khoảng 17 giờ 55 phút ngày 31 tháng 01 năm 2021, trong lúc Phạm Thị L đang bán số lô, số đề của đài xổ số kiến thiết Miền Bắc cho Phạm Thanh V, sinh năm 1993, ở tại thôn Đ, xã B, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi thì bị Công an huyện Bình Sơn phát hiện bắt quả tang.
Vật chứng thu giữ gồm:
- 05 (năm) tờ giấy (khổ giấy A4), trên mặt giấy có ghi số lô, số đề và được Phạm Thị L ký xác nhận. Trong đó, có 02 tờ giấy (khổ giấy A4) ghi số lô, số đề của các đài xổ số kiến thiết tỉnh Kon Tum, tỉnh Khánh Hòa và Miền Bắc, quay số vào ngày 31/01/2021; 03 tờ giấy (khổ giấy A4) ghi số lô, số đề của các đài xổ số kiến thiết các tỉnh vào ngày 28, 29, 30 tháng 01 năm 2021.
- 04 (bốn) cây bút bi mực màu đen.
- Tiền Việt Nam: 5.970.000đồng, trong đó, số tiền của Phạm Thị L là: 4.470.000đồng và số tiền của Phạm Thanh V là: 1.500.000đồng.
Qua kết quả điều tra xác định: Vào ngày 31/01/2021, Phạm Thị L bán số lô, số đề của đài xổ số kiến thiết tỉnh KonTum với số tiền: 4.304.000đồng; đài xổ số kiến thiết tỉnh Khánh Hòa với số tiền: 540.000đồng và đài xổ số kiến thiết Miền Bắc với số tiền 9.771.000đồng; tổng số tiền bán số lô, số đề các đài như trên là: 14.615.000đồng.
Tại thời điểm bắt quả tang đã có kết quả xổ số kiến thiết tỉnh KonTum và tỉnh Khánh Hòa. Qua kiểm tra đối chiếu các tịch ghi số lô, số đề thì xác định trúng thưởng 03 cặp số bao lô của tỉnh KonTum gồm: cặp số 26 x 5 điểm (tức 5.000đồng) x 70 lần, số tiền trúng thưởng 350.000đồng; cặp số 45 x 7 điểm (7.000đồng) x 70 lần, số tiền trúng thưởng 490.000đồng và cặp số 75 x 20 điểm (tức 20.000đồng) x 70 lần, số tiền trúng thưởng 1.400.000đồng; tổng số tiền trúng 03 cặp số bao lô nói trên là: 2.240.000đồng, các đài khác không có số trúng thưởng. Qua điều tra xác định số tiền bán số lô, số đề và tiền trúng thưởng, cụ thể như sau:
Đài tỉnh Kontum: Tiền bán số lô, số đề 4.304.000đồng + tiền trúng thưởng 2.240.000đồng = 6.544.000đồng;
Đài tỉnh Khánh Hòa: Tiền bán số lô, số đề 540.000đồng (không có số trúng thưởng);
Đài Miền Bắc: Tiền bán số lô, số đề 9.771.000đồng (chưa có kết quả xổ số). Tổng số tiền Phạm Thị L dùng vào việc đánh bạc trong ngày 31/01/2021 là: 6.544.000đồng + 540.000đồng + 9.771.000đồng = 16.855.000đồng.
Ngoài ra, tại thời điểm bắt quả tang Công an huyện Bình Sơn còn có tạm giữ 03 tịch ghi số lô, số đề đài xổ số kiến thiết tỉnh Quảng Trị vào ngày 28/01/2021; đài xổ số kiến thiết tỉnh Gia Lai vào ngày 29/01/2021 và đài xổ số kiến thiết tỉnh Quảng Ngãi vào ngày 30/01/2021. Qua kiểm tra đối chiếu 03 tịch ghi số lô, số đề trên thì xác định Phạm Thị L bán số lô, số đề của đài xổ số kiến thiết tỉnh Quảng Trị với số tiền bán: 1.428.000đồng; đài xổ số kiến thiết tỉnh Gia Lai với số tiền bán: 1.218.000đồng và đài xổ số kiến thiết tỉnh Quảng Ngãi với số tiền bán: 1.140.000đồng; tổng số tiền bán số lô, số đề các đài trên là 3.786.000đồng, đối chiếu các tịch ghi số lô, số đề với kết quả xổ số của các đài xổ số kiến thiết tỉnh Gia Lai, tỉnh Quảng Trị, tỉnh Quảng Ngãi thì không có số trúng thưởng.
Tại bản Cáo trạng số 30/CT–VKS, ngày 06/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi truy tố Phạm Thị L về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi giữ nguyên Quyết định truy tố đối với Phạm Thị L về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 35 Bộ luật hình sự, đề nghị áp dụng hình phạt chính là phạt tiền và xử phạt Phạm Thị L, mức phạt tiền từ 60.000.000 đồng (sáu mươi triệu đồng) đến 70.000.000 đồng (bảy mươi triệu đồng).
Về hình phạt bổ sung: Đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật; xử lý vật chứng:
- Đối với khoản tiền dùng vào việc đánh bạc của bị cáo: Tổng số tiền dùng vào việc đánh bạc từ ngày 28/01 đến ngày 31/01/2021 là: 18.401.000 đồng và tiền trúng thưởng 2.240.000 đồng. Tổng số tiền thực tế ghi trong tịch đề là: 18.401.000 đồng. Tuy nhiên, bị cáo chưa nhận tiền bán số lô, số đề đài xổ số kiến thiết Miền Bắc cho Phạm Thanh V, với số tiền là: 1.680.000 đồng, số tiền còn lại 16.721.000 đồng theo tịch đề bị cáo đã nhận đủ. Bị cáo chưa chung thưởng cho người trúng thưởng đài xổ số kiến thiết tỉnh Kon Tum với số tiền là: 2.240.000 đồng. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước đối với số tiền thực tế mà bị cáo đã nhận của người chơi đề là: 16.721.000 đồng. Tiếp tục tạm giữ số tiền của bị cáo bị tạm giữ và tự nguyện giao nộp, tổng cộng 18.961.000 đồng để đảm bảo thi hành án. Đề nghị hoàn trả lại cho bị cáo một phần số tiền đã tự nguyện giao nộp là: 2.240.000 đồng theo Giấy nộp tiền vào tài khoản số: 03 ngày 02/7/2021 của Công an huyện Bình Sơn.
- Đối với khoản tiền dùng vào việc đánh bạc của Phạm Thanh V:
Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền Phạm Thanh V dùng vào việc mua số lô, số đề là: 1.680.000 đồng. Tiếp tục tạm giữ số tiền 1.680.000 đồng của Phạm Thanh V để đảm bảo thi hành án.
- Đối với 04 (bốn) cây bút bi mực màu đen Phạm Thị L sử dụng vào việc ghi số lô, số đề nên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy.
- Đối với 05 (năm) tờ giấy (khổ giấy A4), trên mặt giấy có ghi số lô, số đề của các đài xổ số kiến thiết tỉnh KonTum, tỉnh Khánh Hòa, Miền Bắc, tỉnh Quảng Trị, tỉnh Gia Lai và tỉnh Quảng Ngãi Cơ quan Cảnh sát điều tra đánh bút lục và đã đưa vào hồ sơ vụ án v đây là tài liệu có giá trị chứng cứ chứng minh nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.
Về những vấn đề khác:
- Cơ quan Cảnh sát điều tra xác định từ ngày 28/01/2021 đến ngày 31/01/2021, Phạm Thị L bán số lô, số đề cho nhiều người khác nhưng không biết tên, địa chỉ cụ thể, Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh, khi nào có kết quả sẽ xử lý sau nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.
- Đối với Phạm Thanh V có hành vi đánh bạc (mua số lô, số đề của đài xổ số kiến thiết Miền Bắc vào ngày 31/01/2021), với số tiền là 1.680.000 đồng. Phạm Thanh V đánh bạc dưới 5.000.000 đồng, chưa có tiền án, tiền sự nên Cơ quan Cảnh sát điều tra đã đề nghị Công an huyện Bình Sơn xử phạt hành chính, đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.
Ý kiến bào chữa, tranh luận của bị cáo: Bị cáo không có tranh luận gì về điều luật áp dụng, tội danh, loại hình phạt, hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Sơn. Riêng mức phạt tiền bị cáo cho rằng quá cao nên bị cáo không có điều kiện thi hành. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt tù treo cho bị cáo hoặc áp dụng hình phạt tiền ở mức thấp nhất.
Ý kiến tranh luận, đối đáp của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Sơn: Giữ nguyên đề nghị về hình phạt chính là phạt tiền và mức phạt tiền như trên.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo khó khăn về kinh tế nên đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng án tù treo hoặc phạt tiền ở mức thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã đƣợc tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định nhƣ sau:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên thu thập và người tham gia tố tụng khác cung cấp là phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
[1.2] Xét tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dung:
[2.1] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với phần tóm tắc nội dung vụ án như trên; lời khai nhận tội của bị cáo Phạm Thị L phù hợp với lời nhận tội của bị cáo; lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người làm chứng; biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu và các chứng cứ khác thu thập hợp pháp trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa.
Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Từ ngày 28 đến ngày 31 tháng 01 năm 2021, bị cáo Phạm Thị L đã thực hiện hành vi đánh bạc bằng hình thức ghi số lô, số đề cho người chơi đề dựa trên kết quả xổ số kiến thiết các đài xổ số kiến thiết các tỉnh, miền như sau: Ngày 28/01/2021 đài tỉnh Quảng Trị với số tiền ghi đề 1.428.000đồng, ngày 29/01/2021 đài tỉnh Gia Lai với số tiền ghi đề 1.218.000 đồng, ngày 30/01/2021 đài tỉnh Quảng Ngãi với số tiền ghi đề 1.140.000đồng và vào ngày 31/01/2021 đài tỉnh Kon Tum với số tiền: 4.304.000đồng, tỉnh Khánh Hòa với số tiền: 540.000 đồng, Miền Bắc với số tiền ghi đề 9.771.000đồng; tổng số tiền thực tế ghi trong tịch đề là: 18.401.000đồng, trong đó; tiền chung trúng thưởng đài xổ số kiến thiết tỉnh Kon Tum 2.240.000đồng, đài xổ số Miền Bắc chưa có kết quả xổ số, các đài còn lại không có số trúng thưởng. Như vậy, tổng số tiền Phạm Thị L dùng vào việc đánh bạc là: 18.401.000đồng + 2.240.000đồng = 20.461.000đồng.
[2.2] Trên cơ sở kết quả xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, thấy rằng: Từ ngày 28/01/2021 đến ngày 31/01/2021, Phạm Thị L sử dụng vào việc đánh bạc tổng số tiền là: 20.641.000 đồng. Tuy nhiên, tổng số tiền dùng vào việc đánh bạc trong cùng một lần (mỗi đài xổ số kiến thiết) đều có giá trị dưới 20.000.000 đồng; quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra không chứng minh được số lượng người chơi trong mỗi tịch đề cũng như các tình tiết định khung cơ bản khác về tội “tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc” theo quy đinh tại Điều 322 Bộ luật hình sự. Mặt khác, Phạm Thị L chưa xử lý vi phạm hành chính hoặc bị kết án về tội phạm quy định tại Điều 321 và Điều 322 của Bộ luật hình sự nên hành vi trên của Phạm Thị L chưa đủ yếu tố cấu thành tội “Tổ chức đánh bạc”. Hội đồng xét xử đủ cơ sở xác định, hành vi ghi số lô, số đề của bị cáo như khai nhận như trên đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự như Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bình Sơn truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[2.3] Xét tính chất, vai trò, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người đủ năng lực nhận thức, điều khiển hành vi; động cơ mục đích phạm tội nhằm thu lợi bất chính. Bị cáo nhận thức được và hiểu rõ hành vi bán số lô, số đề là vi phạm pháp luật. Hành vi phạm tội do bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến trật tự công cộng, ảnh hưởng đến nếp sống văn minh của xã hội; đánh bạc là một trong những tệ nạn xã hội, có thể gây ra những hệ lụy xấu đến chính gia đình bị cáo và những người chơi nhưng vì ham lợi bị cáo coi thường pháp luật, bất chấp những hệ lụy có thể xảy ra cho xã hội. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm đối với bị cáo nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.
[2.4] Về nhân thân; tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Trong các lần đánh bạc theo từng tịch đề do Phạm Thị L ghi số lô, số đề theo kết quả xổ số kiến thiết của các đài nêu trên, trong đó có 02 lần trên 5.000.000 đồng, gồm: tiền ghi số lô, số đề và tiền trúng thưởng đài xổ số kiến thiết Kon Tum và tiền ghi số lô, số đề đài xổ số kiến thiết Miền Bắc nên đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc” được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử cần áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên” được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự để xử nghiêm đối với Phạm Thị L.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải (tự nguyện giao nộp số tiền dùng vào việc đánh bạc); có cha là ông Phạm Ngọc A là người có công cách mạng được Thủ tướng Chính Phủ tặng Kỉ niệm chương Chiến sĩ bị địch bắt tù, đày nên cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo phạm tội lần đầu, nhân thân tốt nên không cần thiết áp dụng hình phạt chính là hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo mà cần áp dụng hình phạt chính là hình phạt tiền cũng đủ tác dụng giáo dục riêng đối với bị cáo và nhằm thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
[2.5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo bị áp dụng hình phạt chính là “phạt tiền” nên áp dụng điểm e khoản 2 Điều 32 Bộ luật hình sự không áp dụng hình phạt bổ sung là “phạt tiền” đối với bị cáo.
[2.6] Về xử lý vật chứng:
[2.6.1] Đối với khoản tiền dùng vào việc đánh bạc của bị cáo:
Tổng số tiền dùng vào việc đánh bạc từ ngày 28/01 đến ngày 31/01/2021 là: 20.641.000 đồng, trong đó; số tiền bán số lô, số đề được ghi trong tịch đề là: 4.304.000 đồng + 540.000 đồng + 9.771.000 đồng + 3.786.000 đồng = 18.401.000 đồng, tiền trúng thưởng 2.240.000 đồng. Tổng số tiền thực tế bán số lô, số đề là: 18.401.000 đồng. Tuy nhiên, tại phiên tòa bị cáo khai nhận, bị cáo chưa nhận tiền bán số lô, số đề của Phạm Thanh V, với số tiền ghi đề là: 1.680.000 đồng, số tiền còn lại theo tịch đề bị cáo đã nhận đủ 16.721.000 đồng. Bị cáo là chủ đề, khi có người trúng thưởng thì bị cáo trực tiếp sử dụng khoản tiền đã nhận được từ người chơi đề để chung cho người trúng thưởng, nhưng tại thời điểm bắt quả tang bị cáo chưa chung thưởng đài xổ số kiến thiết tỉnh Kon Tum với số tiền trúng thưởng là: 2.240.000 đồng nên bị cáo còn giữ và đã giao nộp. Vì vậy, Hội đồng xét xử đủ cơ sở xác định số tiền thực tế bị cáo nhận được của người chơi tổng cộng là: 18.401.000 đồng - 1.680.000 đồng (do Phạm Thanh V chưa giao tiền) = 16.721.000 đồng, trong đó; có khoản tiền đã tạm giữ của bị cáo khi bắt quả tang là: 4.470.000 đồng. Hội đồng xét xử cần tuyên tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước đối với số tiền thực tế do bị cáo đã ghi trong các tịch đề và đã nhận của người chơi là: 16.721.000 đồng. Tiếp tục tạm giữ số tiền 16.721.000 đồng của bị cáo để đảm bảo thi hành án, trong đó; 4.470.000 đồng tạm giữ của bị cáo khi bắt quả tang và số tiền 12.251.000 đồng do bị cáo tự nguyện giao nộp trong tổng số tiền 14.491.000 đồng. Như vậy, khoản tiền bị cáo bị bắt quả tang cộng với số tiền bị cáo tự nguyện giao nộp lớn hơn số tiền cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước nên hoàn trả lại cho bị cáo một phần số tiền đã tự nguyện giao nộp là: 14.491.000 đồng - 12.251.000 đồng = 2.240.000 đồng.
[2.6.2] Đối với khoản tiền dùng vào việc đánh bạc của Phạm Thanh V:
Hội đồng xét xử tuyên tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước đối với khoản tiền Phạm Thanh V dùng vào việc đánh đề là: 1.680.000 đồng. Tiếp tục tạm giữ số tiền 1.680.000 đồng của Phạm Thanh V để đảm bảo thi hành án, trong đó; có 1.500.000 đồng tạm giữ khi bắt quả tang và số tiền 180.000 đồng do Việt tự nguyện giao nộp.
[2.6.3] Đối với 04 (bốn) cây bút bi mực màu đen Phạm Thị L sử dụng vào việc ghi số lô, số đề nên Hội đồng xét xử tuyên tịch thu cho tiêu hủy.
[2.6.4] Đối với 05 (năm) tờ giấy (khổ giấy A4), trên mặt giấy có ghi số lô, số đề của đài xổ số kiến thiết tỉnh KonTum, tỉnh Khánh Hòa, tỉnh Quảng Trị, tỉnh Gia Lai, tỉnh Quảng Ngãi và Miền Bắc, đã đánh số bút lục lưu trữ theo hồ sơ vụ án là đúng quy định của pháp luật.
[2.7] Về những vấn đề khác:
[2.7.1] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Phạm Thị L khai rằng không biết họ và tên, địa chỉ của người chơi, không xác định số lượng người chơi trong mỗi tịch ghi số lô, số đề, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Bình Sơn không đủ cơ sở để điều tra xử lý người chơi nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết trong bản án này. Tuy nhiên, kết luận điều tra của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Bình Sơn kết luận tiếp tục điều tra, xử lý hành vi đánh bạc của những người chơi nên đề nghị tiếp tục điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật.
[2.7.2] Đối với Phạm Thanh V có hành vi đánh bạc với số tiền dưới 5.000.000 đồng (đánh đề với số tiền 1.680.000 đồng), đồng thời Phạm Thanh V chưa bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc hoặc hành vi tổ chức đánh bạc; chưa bị kết án về tội đánh bạc hoặc tội tổ chức đánh bạc nên hành vi của Phạm Thanh V chưa đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc”, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã đề nghị Công an huyện Bình Sơn xử phạt hành chính Phạm Thanh V là đúng quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.
[3] Xét ý kiến đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bình Sơn:
Về đề nghị áp dụng pháp luật; tội danh; loại hình phạt; hình phạt bổ sung; tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ, xử lý vật chứng và những vấn đề khác như trên là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận. Riêng mức phạt tiền đối với bị cáo như đề nghị có phần nghiêm khắc, Hội đồng xét xử quyết định dưới mức phạt tiền như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Sơn.
[4] Xét ý kiến tranh luận, lời nói sau cùng của bị cáo: Không chấp nhận về áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo và không chấp nhận áp dụng hình phạt chính là phạt tiền ở mức phạt thấp nhất như tranh luận của bị cáo.
[5] Về án phí: Bị cáo có nghĩa vụ nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[6] Về quyền kháng cáo: Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ: Khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 35 của Bộ luật hình sự;
Tuyên bố bị cáo Phạm Thị L phạm tội: “Đánh bạc”.
Hình phạt chính: xử phạt tiền Phạm Thị L số tiền 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng).
Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tuyên:
2.1. Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền do Phạm Thị L ghi số lô, số đề là: 16.721.000 đồng (mười sáu triệu, bảy trăm hai mươi mốt nghìn đồng).
Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Sơn có trách nhiệm hoàn trả lại cho Phạm Thị L số tiền 2.240.000đồng (hai triệu, hai trăm bốn mươi nghìn đồng) còn thừa trong một phần số tiền bị cáo đã tự nguyện giao nộp.
2.2. Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước đối với khoản tiền Phạm Thanh V dùng vào việc mua số lô, số đề là: 1.680.000đồng (một triệu, sáu trăm tám mươi nghìn đồng).
Khoản tiền thu nộp ngân sách Nhà nước của Phạm Thị L, Phạm Thanh V và số tiền phải hoàn trả lại cho Phạm Thị L như quyết định tại mục 2.1 và 2.2 ở trên đã được nộp theo Giấy nộp tiền của Công an huyện Bình Sơn vào tài khoản của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Sơn mở tại Kho bạc Nhà nước Bình Sơn, tài khoản số: 3949.1068644.00000 ngày 02/7/2021.
2.3. Tịch thu cho tiêu hủy 04 (Bốn) cây bút có đặc điểm theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/7/2021 giữa Công an huyện Bình Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.
3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Phạm Thị L phải nộp án phí hình sự sơ thẩm 200.000đồng Hai trăm nghìn đồng .
4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 27/7/2021).
Riêng người có quyền, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm đối với phần liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú.
Bản án 43/2021/HS-ST ngày 27/07/2021 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 43/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bình Sơn - Quảng Ngãi |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/07/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về