Bản án 43/2021/HS-ST ngày 24/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 43/2021/HS-ST NGÀY 24/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 20/2021/TLST-HS ngày 03 tháng 02 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2021/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 02 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Hà Quang T, sinh năm 1997; nơi sinh: C; hộ khẩu thường trú: Khóm 10, thị trấn S, huyện T, tỉnh C; nghề nghiệp: Bảo vệ; trình độ văn hoá: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: N; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt N; con ông Hà Quang H và bà Phạm Thị V; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ từ ngày 29/10/2020 sau đó tạm giam cho đến nay; có mặt.

2. Ninh Quang N, sinh năm 1994; nơi sinh: N; hộ khẩu thường trú: Ấp 5, xã N, huyện T, tỉnh Đ; nghề nghiệp: Bảo vệ; trình độ văn hoá: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: N; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt N; con ông Ninh Quang Đ và bà Đỗ Thị M; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 26/7/2013 bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đ xử phạm 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 62/2013/HSST; bị bắt, tạm giữ từ ngày 29/10/2020 sau đó tạm giam cho đến nay; có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Phạm Văn L, sinh năm 1981; địa chỉ: Xóm 4, xã Đ, huyện K, tỉnh Nình. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hà Quang T và Ninh Quang N là bạn cùng ở chung phòng trọ tại khu phố 1, phường V, thị xã T, tỉnh B. Cả hai đều là đối tượng nghiện ma túy.

Khoảng 23 giờ 45 phút ngày 28/10/2020, tại đoạn đường số 19 khu công nghiệp Vsip 2A thuộc phường V, thị xã T, tỉnh B, Công an đồn khu công nghiệp thị xã Tân Uyên tuần tra phát hiện khả nghi nên kiểm tra hành chính đối với Hà Quang T và Ninh Quang N thu giữ 01 bịch nylon có chứa chất tinh thể màu trắng và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy tự chế. T và N khai chất tinh thể màu trắng là ma túy có nguồn gốc do T và N đi mua về nhằm sử dụng.

Công an đồn khu công nghiệp thị xã Tân Uyên lập biên bản niêm phong chất tinh thể màu trắng thu giữ của T và N, đồng thời thu giữ tài liệu, đồ vật liên quan gồm: 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Thăng Long; 01 xe mô tô biển số 29K5- 0168; 01 điện thoại di động hiệu Vivo, màu đen; 01 túi đeo màu nâu; 01 nỏ thủy tinh; 01 chứng minh nhân dân tên Hà Quang T; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe biển số 29K5-0168; 01 thẻ ATM ngân hàng Vietcombank; 01 thẻ ATM ngân hàngACB; 01 thẻ bảo hiểm y tế tên Hà Quang T; 01 điện thoại di động hiệu OPPO A7, màu đen.

Quá trình điều tra xác định: Khoảng 19 giờ ngày 28/10/2020 khi đang ở phòng trọ, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Hà Quang T rủ Ninh Quang N đi xuống thành phố H để mua ma túy về sử dụng thì N đồng ý. Sau đó, T điều khiển xe mô tô biển số 29K5 – 0168 chở N đi từ phòng trọ xuống thành phố Hồ Chí Minh để mua ma túy. Trên đường đi T sử dụng điện thoại di động gọi điện Zalo cho đối tượng tên L là bạn của T trên mạng xã hội Zalo, L nghe máy và đồng ý bán ma túy cho T, L hẹn gặp T tại đường 385 thuộc phường L T, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh thì T đồng ý. Sau khi gọi điện xong, T tiếp tục điều khiển xe chở N đi đến địa điểm đã hẹn, khi đến đường 385 thì T dừng xe lại và nói N ở lại trong xe còn T đi bộ vào bên trong đường 385 để gặp L mua ma túy thì N đồng ý. T xuống xe và đi bộ vào đường 385 thì gặp L, T đưa cho L 200.000 đồng, L nhận tiền và đưa cho T 01 vỏ bao thuốc lá hiệu T bên trong hộp thuốc có 01 bịch nylon có chứa ma túy bên trong và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy tự chế, T nhận lấy và cất vỏ hộp thuốc mà L đưa vào túi màu nâu đang đeo trên người rồi đi ra gặp N. Khi gặp T nói cho N biết đã mua được ma túy với giá 200.000 đồng, T và N đi về phòng trọ để sử dụng thì N đồng ý nên T điều khiển xe chở N đi về phòng trọ. Khi đi đến đoạn đường số 19 khu công nghiệp Vsip 2A thuộc phường V, thị xã T, tỉnh B thì bị lực lượng Công an kiểm tra, bắt giữ.

Tại Bản kết luận giám định số 687/MT–PC09 ngày 06/11/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B, kết luận: Mẫu tinh thể thu giữ của Hà Quang T, Ninh Quang N gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,2420 gam, loại Methamphetamine.

Đối với xe mô tô biển số 29K5 - 0168. Qúa trình điều tra xác định đây là tài sản thuộc sở hữu của ông Phạm Văn L là cha dượng của T, xe này do ông L mua lại vào năm 2017 nhưng không làm hợp đồng mua bán, không sang tên, ông Lp cho T mượn xe này để làm phương tiện đi lại việc T sử dụng xe để đi ma túy thì ông L không biết. Xe không có trong dữ liệu xe máy vật chứng.

Cáo trạng số 37/CT-VKSTU ngày 05/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên truy tố các bị cáo Hà Quang T và Ninh Quang N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử xem xét - Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Hà Quang T từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù và xử phạt bị cáo Ninh Quang N từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

- Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp: Lượng ma túy còn lại sau giám định là vật cấm tàng trữ, vỏ bao thuốc lá hiệu Thăng Long, 01 nỏ thủy tinh không giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy; xe mô tô số khung CM100ME8001521 số máy C100M8001521 không rõ nguồn gốc, không được đăng ký sở hữu và điện thoại di động hiệu Vivo là tài sản thuộc quyền sở hữu của bị cáo, bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước; đối với các tài sản, đồ vật khác không liên quan hành vi phạm tội của các bị cáo, cần trả cho các bị cáo tiếp tục sử dụng.

Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố, các bị cáo không có ý kiến gì tại phần tranh luận; lời nói sau cùng, các bị cáo đều nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật, tỏ thái độ ăn năn, hối hận và mong muốn được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Quá trình điều tra, truy tố Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố.

[2] Về các yếu tố cấu thành tội phạm: Tại phiên tòa các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng truy tố, lời khai lời khai của các bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án. Do đó có đủ cơ sở xác định: Khoảng 23 giờ 45 phút ngày 28/10/2020, tại đoạn đường số 19 khu công nghiệp Vsip 2A thuộc phường V, thị xã T, tỉnh B, Hà Quang T và Ninh Quang N có hành vi cất giấu trong người 0,2420 gam ma túy loại Methamphetamine với mục đích để cùng nhau sử dụng thì bị bắt quả tang. Thời điểm thực hiện hành vi, các bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tự ý cất giữ ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì thái độ coi thường pháp luật mà cố ý thực hiện. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến hoạt động quản lý độc quyền của Nhà nước về lĩnh vực chất gây nghiện. Hành vi của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng truy tố cũng như luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[4] Về nhân thân: Các bị cáo đều là đối tượng nghiện ma túy, bị cáo Hà Quang T chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo Ninh Quang N vào năm 2013 bị Tòa án nhân dân huyện Tân Phú xử phạt 08 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản đã được xóa án tích.

[5] Về tính chất đồng phạm, cụ thể hóa tội phạm: Các bị cáo cùng thực hiện hành vi phạm tội, tuy là đồng phạm nhưng tính chất giản đơn, các bị cáo cùng có vai trò là người thực hành, số tiền bỏ ra mua ma túy là của bị cáo Hà Quang T, bị cáo T là người khởi xướng cho hành vi phạm tội, bị cáo T chủ động liên lạc, thỏa thuận với đối tường bán ma túy và trực tiếp mua ma túy; bị cáo N tuy không góp tiền mua ma túy nhưng có thỏa thuận với bị cáo T là đi mua ma túy về để cùng sử dụng, bị cáo N đi cùng với bị cáo T đến gặp người bán ma túy, đứng ngoài giữ xe cho bị cáo T vào trong hẻm mua ma túy; do đó mức độ thực hiện tội phạm của bị cáo T là cao hơn bị cáo N nên phải chịu trách nhiệm hình sự cao hơn.

[6] Về mức hình phạt áp dụng đối với các bị cáo: Xét thấy mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với các bị cáo là nặng so với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của các bị cáo. Cần thiết tiếp tục cách ly các bị cáo ra khỏi cộng đồng xã hội một thời gian nhất định nhằm giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung xã hội.

[7] Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp: Lượng ma túy còn lại sau giám định là vật cấm tàng trữ, vỏ bao thuốc lá, 01 nỏ thủy tinh không giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy; xe mô tô số khung CM100ME8001521 số máy C100M8001521 không rõ nguồn gốc, không được đăng ký sở hữu và điện thoại di động hiệu Vivo là tài sản thuộc quyền sở hữu của bị cáo, bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước; xe mô tô biển số 29K5-0168 không có trong giữ liệu xe máy vật chứng, biển số được gắn trên xe mô tô không đăng ký hợp pháp, việc sử dụng giấy chứng nhận đăng ký cho xe này là không hợp pháp, xe bị tịch thu sung ngân sách nên biển số xe, giấy chứng nhận đăng ký xe không còn giá trị sử dụng nên cần tịch tu tiêu hủy; đối với các tài sản, đồ vật khác không liên quan hành vi phạm tội của các bị cáo, cần trả cho các bị cáo tiếp tục sử dụng.

[8] Về án phí sơ thẩm: Các bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Hà Quang T và Ninh Quang N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Về trách nhiệm hình sự:

1.1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 38 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Hà Quang T 01 (Một) năm 08 (Tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 29/10/2020.

1.2. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 38 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Ninh Quang N 01 (Một) năm 05 (Năm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 29/10/2020.

2. Về xử lý vật chứng, áp dụng biện pháp tư pháp:

Căn cứ Điều 46, 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 0,1543g ma túy còn lại sau giám định trong bì thư niêm phong ký hiệu 687/P09; 01 vỏ bao thuốc lá; 01 nỏ thủy tinh; biển số xe 29K5-0168 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe biển số 29K5-0168.

- Tịch thu sung và ngân sách Nhà nước: Xe mô tô số khung CM100ME8001521 số máy C100M8001521 và 01 điện thoại di động hiệu Vivo.

- Trả lại cho bị cáo Hà Quang T: 01 túi đeo màu nâu; 01 chứng minh nhân dân tên Hà Quang T; 01 thẻ ATM ngân hàng Vietcombank; 01 thẻ ATM ngân hàng ACB; 01 thẻ bảo hiểm y tế tên Hà Quang T.

- Trả lại cho bị cáo Ninh Quang N: 01 điện thoại di động hiệu OPPO A7.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/02/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên)

3. Về án phí sơ thẩm:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án :

Buộc mỗi bị cáo Hà Quang T, Ninh Quang N phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 43/2021/HS-ST ngày 24/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:43/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Tân Uyên - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;