Bản án 43/2021/HS-ST ngày 18/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẨM MỸ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 43/2021/HS-ST NGÀY 18/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18/5/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cẩm Mỹ xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 36/2021/HSST ngày 16/4/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2021/QĐXXST-HS ngày 04/5/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên Phạm Ngọc H, tên gọi khác Heo; giới tính Nam; sinh năm 1995, tại Đồng Nai; Nghề nghiệp: Không; Nơi cư trú: ấp 8, xã X, huyện C, tỉnh Đồng Nai; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 01/12; Con ông Phạm Văn B, sinh năm 1969 và bà Cao Thị Thanh H, sinh năm 1970; Vợ, con chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Tại Bản án số 03/2021/HS-ST ngày 13/01/2021, bị Tòa án nhân dân huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai xử phạt 01 năm tù về tội: “Trộm cắp tài sản”; Bị tạm giữ ngày 31/8/2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Cẩm Mỹ. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa) - Người có quyền lợi,nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Cháu Nguyễn Thị Kim H, sinh năm 2006. Địa chỉ: Ấp 1, xã L, huyện C, tỉnh Đồng Nai.(vắng mặt)

2. Anh Thái Lý Minh T, sinh năm 1996. Địa chỉ: Ấp 1, xã S, huyện C, tỉnh Đồng Nai.(vắng mặt)

 3. Anh Võ Tấn H, sinh năm 2003. Địa chỉ: Ấp T, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Long An.(vắng mặt) - Người đại diện hợp pháp cho cháu Nguyễn Thị Kim Hằng:

Anh Nguyễn Trương S, sinh năm 1988. Địa chỉ: Ấp 1, xã L, huyện C, tỉnh Đồng Nai.(vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 22 giờ ngày 28/8/2020, tại nhà Thái Lý Thanh T, sinh năm 1996 thuộc ấp 1, xã S, huyện C, tỉnh Đồng Nai, Nguyễn Thị Kim H1 đã nhờ Phạm Ngọc H phân nhỏ ma túy để cất giấu nên H đã đồng ý. H1lấy 01 bịch ma túy, 01 cái kéo, bìa nhựa màu trắng, ông hút nước và 01 quẹt gas đưa cho H, sau đó H cắt bìa nhựa thành những tấm nhỏ rồi dùng ống hút nước xúc ma túy bỏ váo các tấm bì nhựa được 13 bịch rồi đưa cho H1 dùng quẹt gas hàn kín hai đầu rồi bỏ vào bên trong chiếc dép của H thì bị lực lượng công an xã S, huyện C bắt quả tang. Quá trình điều tra xác định được như sau:

Vào ngày 27/8/2020, Lê Thị Đ mua ma túy của một người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) đem đến nhà bán cho Đức với giá 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng). Đến tối cùng ngày thì Nguyễn Thị Kim H1 là bạn gái của con trai Đ đến nhà chơi, trong lúc ngồi chơi thì Đ hỏi H1 có bán ma túy thì Đ giúp, nên H1 đồng ý. Khoảng 12 giờ ngày 28/8/2020, H1 đến nhà Thái Lý Thanh T và nhờ T chở H1 đến nhà Đ, khi T chở H1 đến nhà Đ thì T ngồi ngoài bàn ghế đá ở sân nhà còn H1 vào trong nhà gặp Đ. Tại đây, Đ đưa cho H1 một bịch ma túy với giá 1.000.000 đồng (một triệu đồng) nhưng H1 chưa đưa tiền cho Đ rồi ra về. Sau khi về lại nhà T thì H1 có bán cho T một nửa số ma túy vừa mua với giá 1.000.000 đồng (một triệu đồng) để T sử dụng. Vì chưa có tiền nên T nợ lại H1, riêng số ma túy còn lại thì H1 cất giữ. Chiều ngày 28/8/2020, H1 quay lại nhà Đ và trả trước cho Đ 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng) là tiền mua ma túy trước đó. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày H1 đến nhà T thì gặp T, Phạm Ngọc H; Võ Tấn H, sinh năm 2003 ngụ xã Tân Lâm, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cùng với các đối tượng Tý Đ, V và H2 (không rõ nhân thân, lai lịch) đang sử dụng ma túy tại phòng ngủ sát nhà bếp nên H1 vào cùng sử dụng chung ma túy, sau khi sử dụng ma túy xong thì Tý Đ, V và H2 đi về. Do cần bán số ma túy còn lại để kiếm lời nên H1 nhờ H lên phòng ngủ phía trước nhà phân nhỏ số ma túy đã mua của Đức thì bị lực lượng Công an xã Sông Ray kiểm tra, phát hiện bắt quả tang như trên.

Vật chứng thu giữ:

- Thu giữ tại nhà Thái Lý Thanh T 13 đoạn ống nhựa được hàn kín 2 đầu bên trong chứa chất tinh thể màu trắng được niêm phong thành một gói, bên trên gói có dấu mộc đỏ của công an xã Sông Ray và chữ ký xác nhận của Nguyễn Thị Kim H1.

- Thu giữ tại nhà Lê Thị Đ 03 bịch nhựa được hàn kín bên trong chứa chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy được niêm phong thành 1 gói có chữ ký của Lê Thị Đ và dấu mộc đỏ của công an xã Xuân Đông (kí kiệu M1); 01 bịch nhựa màu trắng được hàn kín bên trong chứa chất tinh thể màu trắng được niêm phong thành 01 gói có chữ ký của Lê Thị Đ và dấu mộc đỏ của công an xã Xuân Đông; 01 cân tiểu li màu đen hiệu AMPUT; 37 (ba mươi bảy) ống thủy tinh và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy, thu giữ tại nơi ở của Lê Thị Đ.

Tại Biên bản kết luận giám định số 2105/GĐMT- PC09 ngày 07/9/2020, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận:

- Mẫu chất tinh thể màu trắng (kí hiệu M1) được niêm phong gởi đến giám định là ma túy có khối lượng 2,9554 gam, loại Methaphetamine.

- Mẫu chất tinh thể màu trắng (kí hiệu M2) được niêm phong gởi đến giám định là ma túy có khối lượng 0,2107 gam, loại Methaphetamine.

Tại bản cáo trạng số 42/CT-VKS.CM ngày 15/4/2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Mỹ truy tố bị cáo Phạm Ngọc H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 249 khoản 1, điểm c, Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Mỹ giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo theo bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Ngọc H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Phạm Ngọc H từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên: Tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng 1,0911gam, được niêm phong số 2104/KLGĐ-PC09 ngày 04/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa bị cáo Phạm Ngọc H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với nội dung bản cáo trạng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng của vụ án đã thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Vào khoảng 22 giờ ngày 28/8/2020, tại nhà Thái Lý Thanh T, sinh năm 1996 thuộc ấp 1, xã S, huyện C, tỉnh Đồng Nai, Nguyễn Thị Kim H1 đã nhờ Phạm Ngọc H phân nhỏ ma túy để cất giấu nên H đã đồng ý. H1 lấy 01 bịch ma túy, 01 cái kéo, bìa nhựa màu trắng, ông hút nước và 01 quẹt gas đưa cho H, sau đó H cắt bìa nhựa thành những tấm nhỏ rồi dùng ống hút nước xúc ma túy bỏ vào các tấm bì nhựa được 13 bịch đưa cho Hằng dùng quẹt gas hàn kín hai đầu rồi bỏ vào bên trong chiếc dép của H1 thì bị lực lượng công an xã S, huyện C bắt quả tang. Tại Kết luận giám định số 2104/KLGĐ-PC09 ngày 04/9/2020, Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu tinh thể màu trăng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 1,1320 gam, loại Methamphetamine. Bị cáo Phạm Ngọc H biết Nguyễn Thị Kim H1 tàng trữ ma túy, nhưng vì muốn giúp đỡ cho Hằng cất dấu nên H có hành vi giúp sức phân nhỏ số ma túy ra cho H. Như vậy, Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo Phạm Ngọc H đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

 [2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

 [3] Về tình tiết giam nhe trách nhiệm hình sự : Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến an toàn trật tự tại địa phương. Việc tàng trữ và sử dụng trái phép chất ma túy là nguyên nhân dẫn đến những thiệt hại về tài sản, là nguồn lây lan nhiều căn bệnh nguy hiểm, là nguyên nhân gia tăng các loại tội phạm về hình sự. Do đó, cần áp dụng mức hình phạt tù tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[5] Bản án số 03/2021/HS-ST ngày 13/01/2021 Tòa án nhân dân huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai xử phạt bị cáo Phạm Ngọc H 01 (Một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” đã có hiệu lực pháp luật nên cần tổng hợp với hình phạt của bản án này theo quy định tại khoản 2 Điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

[6] Đối với Lê Thị Đ có hành vi mua bán trái phép chất ma túy, tuy nhiên ngày 12/12/2020 Lê Thị Đ đã chết do bệnh lý nên ngày 15/12/2020 cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai đã đình chỉ điều tra bị can và ngày 15/3/2021 đình chỉ điều tra vụ án hình sự đối với Lê Thị Đ.

- Đối với Nguyễn Kim H1 có hành vi mua ma túy bán lại cho Thái Lý Thanh T và phân nhỏ ra bán lại kiếm lời đã có đủ yếu tố cấu thành tội Mua bán trái phép chất ma túy quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, khi thực hiện hành vi phạm tội H1 mới 13 tuổi 09 tháng 26 ngày do đó H1 chưa đủ tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi trên nên cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai không truy cứu trách nhiệm hình sự là phù hợp.

- Đối với Thái Lý Thanh T, Võ Tấn H đã có hành vi sử dụng ma túy cùng với Phạm Ngọc H nên kiến nghị cơ quan điều tra tiếp tục xác minh và xử lý sau.

- Đối với 01 gói niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai số 2104/KLGĐ-PC09 ngày 04/9/2020 còn lại sau giám định có khối lượng 1,0911 gam; 01 gói niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai số 2105/KLGĐ-PC09 ngày 05/9/2020 còn lại sau giám định có khối lượng M1: 2.9240 gam; M1: 0,1852 gam là vật cấm lưu hành; 01 cân tiểu ly màu đen hiệu AMPUT; 37 ống thủy tinh; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy là vật cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

[8] Đề nghị của Kiểm sát viên phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[9] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[10] Về án phí: Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội và bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

2. Tuyên bố bị cáo Phạm Ngọc H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt: Bị cáo Phạm Ngọc H 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Tổng hợp với hình phạt 01 (Một) năm tù tại Bản án số 03/2021/HSST ngày 13/01/2021 của Tòa án nhân dân huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai. Buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 31/8/2020.

3. Về biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai số 2104/KLGĐ-PC09 ngày 04/9/2020 còn lại sau giám định có khối lượng 1,0911 gam; 01 gói niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai số 2105/KLGĐ-PC09 ngày 05/9/2020 còn lại sau giám định có khối lượng M1: 2.9240 gam; M1: 0,1852 gam là vật cấm lưu hành; 01 cân tiểu ly màu đen hiệu AMPUT; 37 ống thủy tinh; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Cẩm Mỹ theo biên bản bàn giao tang vật ngày 15 tháng 4 năm 2021.

4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Phạm Ngọc H nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 43/2021/HS-ST ngày 18/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:43/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Mỹ - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;