Bản án 43/2021/HS-ST ngày 04/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 6, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 43/2021/HS-ST NGÀY 04/06/2021 VỀ TI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 41/2021/TLST-HS ngày 27 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 52/2021/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Lê Ngọc Thúy A; Sinh ngày: 27/12/1998; Tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: C13/23 Cư xá PLB, Phường M, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh; Tạm trú: C11A Cư xá PLB, Phường M, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Sinh viên; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lê Công V (chết) và bà: Nguyễn Thị Ngọc H (chết); Có chồng: Không và con: Không; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giữ từ ngày 06/01/2021 đến ngày 12/01/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. (bị cáo có mặt tại phiên tòa)

- Bị hại:

Bà Phạm Thị Mỹ L; Sinh năm: 1986; Trú tại: C8 Cư xá PLB, Phường M, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Bà Lê Thị Thu T; Sinh năm: 1973; Trú tại: C11A Cư xá PLB, Phường M, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt)

2. Bà Phan Thị Phương D; Sinh năm: 1967; Trú tại: C7 Cư xá PLB, Phường M, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh.

(vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Ngọc Thúy A là người làm công cho gia đình bà Phạm Thị Mỹ L tại nhà số C8 Cư xá PLB, Phường M, Quận F với nhiệm vụ là phụ giúp việc nhà.

Khoảng 08 giờ ngày 04/01/2021, trong lúc lau dọn phòng ngủ của con trai bà L tại tầng 1, A phát hiện dưới sàn gạch (cạnh cửa ra vào) có để 01 két sắt và chìa khóa vẫn còn cắm trong ổ khóa liền dùng tay vặn chìa khóa mở két sắt ra xem thì thấy bên trong có rất nhiều tiền và trang sức. Thấy không có ai, nên A lấy một cọc tiền (gồm 10 xấp) mệnh giá 200.000 đồng tháo niêm phong rồi rút ra 05 xấp, còn 05 xấp A cất lại vị trí cũ trong két sắt. Sau đó, A mở hộp nữ trang màu đỏ thì thấy bên trong có nữ trang và 500 đô la Mỹ, A lấy 500 đô la Mỹ, còn nữ trang thì để lại trong hộp cất vào trong két sắt. Tiếp tục, A mở ngăn kéo bên trong két sắt thấy có nữ trang và 2.500 đô la Mỹ, nên lấy 2.500 đô la Mỹ, còn nữ trang thì cất lại vị trí cũ. Xong, A cất 05 xấp tiền mệnh giá 200.000 đồng và 3.000 đô la Mỹ vào trong ba lô màu đỏ (có nhiều họa tiết hoa văn màu đỏ) của A, rồi đóng két sắt lại, vặn nút xoay mã khóa để không thay đổi, đồng thời rút chìa khóa để trên bàn học gần chỗ để két sắt và tiếp tục làm việc nhà. Sau khi làm xong việc nhà, A khóa cửa và ra về. Khi về đến phòng trọ tại nhà số 59/48B đường THĐ, Phường N, Quận F, A lấy 05 xấp tiền ra kiểm tra thì thấy có tổng cộng là 100.000.000 đồng. Sau đó, A lấy tiền và đô ra cất giấu nhiều nơi. Cụ thể: giấu 100.000.000 đồng và 500 đô la Mỹ trong ba lô màu đỏ (có nhiều họa tiết hoa văn màu đỏ) để ở phòng trọ; giấu 400 đô la Mỹ trong ba lô màu xanh đeo trên người; giấu 1.000 đô la Mỹ trong hộp khẩu trang để trên bàn học của A; giấu 1.100 đô la Mỹ trong bộ quần áo màu hồng nhạt có họa tiết chuột Mickey (bộ quần áo để trong tủ gổ đặt tại nhà của bà Phan Thị Phương D - địa chỉ C7 Cư xá PLB, Phường M, Quận F).

Ngày 05/01/2021, bà Phạm Thị Mỹ L phát hiện thấy mất tài sản đã đến Công an Phường 13, Quận 6 trình báo sự việc.

Công an Phường 13, Quận 6 triệu tập Lê Ngọc Thúy A lên trụ sở Công an phường làm việc. Qua đấu tranh, A khai nhận đã lấy trộm tiền và đô la Mỹ của bà Phạm Thị Mỹ L, đồng thời chỉ nơi cất giấu tài sản chiếm đoạt. Sau khi thu giữ tài sản mà An chiếm đoạt gồm: 100.000.000 đồng và 1.900 đô la Mỹ, Công an Phường 13, Quận 6 đã chuyển giao cho Cơ quan điều tra Công an giải quyết.

Quá trình điều tra, bà Lê Thị Thu T đã giao nộp 1.100 đô la Mỹ được giấu bên trong bộ quần áo màu hồng nhạt có họa tiết chuột Mickey (bộ quần áo của Lê Ngọc Thúy A) cho Cơ quan điều tra Công an Quận 6.

Tại Kết luận định giá tài sản số: 26/KL-HĐĐGTS ngày 18 tháng 01 năm 2021, Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự Quận 6 đã kết luận trị giá của 3.000 đô la Mỹ (gồm 30 tờ tiền mệnh giá 100 đô la Mỹ, có các số seri: PB22597222D, PB22597223D, PB22597324D, PB22597325D, PB22597326D, PB22597327D, MK56329792C, LL49058109H, LG18451557D, MB19022292F, MB3549283S, MB47535111Q, MB98519497M, MB98519495M, LB91191102L, LB78740647L, LB67591269M, LB88668098V, LB88668098V, MC43559378A, ML25080364B, MJ51212861ALB13626580M, PB33779560C, PB33779561C, MD97673397A, MD97673398A, MD97673399A, MD97673400A, MD97673576A) tại thời điểm ngày 04/01/2021 là: 68.940.000 đồng.

Ngày 11 tháng 01 năm 2021, Cơ quan điều tra Công an Quận 6 quyết định khởi tố vụ án hình sự (Quyết định số: 10/QĐKTVA-ĐTTH); khởi tố bị can đối với Lê Ngọc Thúy A về tội «Trộm cắp tài sản» (Quyết định số: 08/QĐKTBC-ĐTTH).

Đối với bà Phan Thị Phương D (mẹ nuôi của Lê Ngọc Thúy A), không liên đến hành vi phạm tội của Lê Ngọc Thúy A, nên không xem xét xử lý.

Tại Cáo trạng số: 37/CT-VKS-Q6 ngày 27 tháng 4 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Lê Ngọc Thúy A về tội «Trộm cắp tài sản» theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa: Bị cáo Lê Ngọc Thúy A khai nhận chính bị cáo đã thực hiện hành vi lấy trộm của bà Phạm Thị Mỹ L số tiền 100.000.000 đồng và 3.000 đô la Mỹ để trong két sắt dưới sàn gạch (cạnh cửa ra vào) tại phòng ngủ tầng 1, nhà số C8 Cư xá PLB, Phường M, Quận F vào khoảng 08 giờ 30 phút ngày 04/01/2021 như nội dung bản cáo trạng nêu;

Bị hại Phạm Thị Mỹ L khai cũng tương tự và xác nhận bị mất 3.000 đô la Mỹ (gồm 30 tờ tiền mệnh giá 100 USD) và số tiền 100.000.000 đồng (gồm 05 cọc tiền mệnh giá 200.000 đồng). Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra Công an Quận 6 đã thu hồi 3.000 đô la Mỹ và số tiền 100.000.000 đồng trả lại cho bà. Tại phiên tòa hôm nay, bà không có ý kiến hay yêu cầu gì về phần bồi thường, bà đồng ý bãi nại cho bị cáo Lê Ngọc Thúy A và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo;

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Lê Thị Thu T trình bày: Sau khi Lê Ngọc Thúy A (em họ của bà T) bị tạm giữ, bà T về kiểm tra đồ đạc của A để ở nhà của bà Phan Thị Phương D tại địa chỉ C7 Cư xá PLB, Phường M, Quận F (nhà mẹ nuôi của A) thì phát hiện trong bộ quần áo của A (bộ quần áo màu hồng nhạt có họa tiết chuột Mickey) có 1.100 đô la Mỹ, nghĩ số tiền này có liên quan đến hành vi lấy trộm tài sản của A, nên bà đã đem đến Cơ quan điều tra Công an Quận 6 giao nộp.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Lê Ngọc Thúy A như bản cáo trạng và sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Phạt bị cáo Lê Ngọc Thúy A từ 02 năm đến 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 04 năm đến 05 năm về tội «Trộm cắp tài sản» theo điểm c khoản 2 Điều 173; điểm h, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Không phạt tiền đối với bị cáo, do bị cáo không có khả năng thi hành.

Về bồi thường thiệt hại: Bị hại Phạm Thị Mỹ L đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường, nên không đề nghị xử lý.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy: 01 balo màu xanh có chữ «Dấu ấn 45 năm SAIGONTOURIST»; 01 balo màu đỏ có nhiều họa tiết hoa văn màu đỏ;

01 túi nylon đựng khẩu trang có chữ «3D MASK»; 01 bộ quần áo có họa tiết chuột Mickey.

Còn các vật chứng khác, Cơ quan điều tra Công an Quận 6 đã xử lý xong, nên không đề nghị xử lý.

Lời nói sau cùng, bị cáo Lê Ngọc Thúy A nhận thức được hành vi của bị cáo là sai, là vi phạm pháp luật nên không tranh luận mà chỉ xin Hội đồng xét xử phạt bị cáo mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình, có cơ hội được tiếp tục đi học.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 6, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo; bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối chiếu lời khai của bị cáo Lê Ngọc Thúy A; của bị hại Phạm Thị Mỹ L; của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Lê Thị Thu T tại phiên tòa là phù hợp với nhau và phù hợp với Biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 05/01/2021 của Công an Quận 6; Biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu; Kết luận định giá tài sản số: 26/KL-HĐĐGTS ngày 18/01/2021của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự Quận 6; lời khai người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Phan Thị Phương D và của người làm chứng tại Cơ quan điều tra cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lê Ngọc Thúy A đã phạm tội «Trộm cắp tài sản». Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Bị cáo Lê Ngọc Thúy A đã lợi dụng sự sơ hở của bà Phạm Thị Mỹ L, lén lút mở két sắt chiếm đoạt của bà L số tiền 100.000.000 đồng và 3.000 đô la Mỹ có tỷ giá ngoại tệ tương đương là 68.940.000 đồng vào sáng ngày 04/01/2021 tại phòng ngủ tầng 1, nhà số C8 Cư xá PLB, Phường M, Quận F (tổng trị giá tài sản mà bị cáo chiếm đoạt là 168.940.000 đồng). Hành vi này của bị cáo không những đã xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự, trị an chung. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 truy tố bị cáo về tội: «Trộm cắp tài sản» thuộc trường hợp «tài sản bị chiếm đoạt trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng» theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

Bị cáo Lê Ngọc Thúy A là người đã trưởng thành, bị cáo hoàn toàn có đủ khả năng nhận thức được hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là hành vi nguy hiểm cho xã hội và được quy định trong Bộ luật hình sự, nhưng do tham lam, lười lao động, chỉ vì muốn có tiền tiêu xài mà bị cáo đã bất chấp pháp luật, cố tình thực hiện hành vi phạm tội nêu trên, nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo Lê Ngọc Thúy A đã hoàn thành, việc bị phát hiện và thu giữ lại tài sản là hoàn toàn ngoài ý muốn của bị cáo, do đó Hội đồng xét xử thấy cần phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc tương xứng mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và để phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn (toàn bộ tài sản đã được thu hồi trả bị hại) và được bị hại bãi nại, đồng thời đề nghị giảm nhẹ hình phạt; tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu (chưa có tiền án - tiền sự); hiện là sinh viên của Trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm Thành phố Hồ Chí Minh (Niên khóa: 2017 - 2021, Khoa: Công nghệ thực phẩm, mã số sinh viên: 2005170305) và đạt nhiều thành tích tốt trong học tập (được nhận học bổng gia đình Adams - theo Chứng nhận ngày 18/12/2020 của Trung tâm hỗ trợ học sinh, sinh viên Thành phố Hồ Chí Minh), nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình theo quy định tại điểm h, điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Và xét hành vi phạm tội của bị cáo chỉ mang tính chất cơ hội, giản đơn; ngoài lần phạm tội này bị cáo không có vi phạm pháp luật nào khác; hiện có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng và có người bảo lãnh. Ngoài ra, theo kết quả xác minh của Công an Phường 13, Quận 6 thì từ khi được tại ngoại đến nay, bị cáo đã không gây nguy hại, tôn trọng các quy tắc xã hội, chấp hành đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của công dân nơi cư trú, không vi phạm các điều mà pháp luật cấm. Và qua xem xét, đánh giá, Hội đồng xét xử nhận thấy bị cáo có khả năng tự cải tạo mình để trở thành người công dân tốt, nên thấy không cần bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù mà cho bị cáo được hưởng án treo với một thời gian thử thách nhất định theo quy định tại Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 2 Nghị quyết số: 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 vẫn đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung, đồng thời thể hiện sự khoan hồng của pháp luật, tạo điều kiện cho bị cáo được tiếp tục đi học và có cơ hội sửa chữa những sai lầm mà bị cáo đã phạm phải.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, thì bị cáo Lê Ngọc Thúy A còn có thể bị phạt tiền từ 05 triệu đồng đến 50 triệu đồng. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là sinh viên, hiện còn đang đi học, không có thu nhập, điều kiện kinh tế còn khó khăn. Vì vậy Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Việc bồi thường thiệt hại: Tại phiên tòa, bà Phạm Thị Mỹ L xác nhận đã nhận đủ 3.000 đô la Mỹ cùng số tiền 100.000.000 đồng và bà đồng ý bãi nại cho bị cáo Lê Ngọc Thúy A, do đó Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

[6] Việc xử lý vật chứng: 01 balo màu xanh có chữ «Dấu ấn 45 năm SAIGONTOURIST»; 01 balo màu đỏ có nhiều họa tiết hoa văn màu đỏ; 01 túi nylon đựng khẩu trang có chữ «3D MASK»; 01 bộ quần áo có họa tiết chuột Mickey, là vật không có giá trị hoặc không sử dụng được, nên Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

(theo Phiếu nhập kho vật chứng số: 20/PNK ngày 11 tháng 01 năm 2021 và Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 10 tháng 5 năm 2021 của Công an Quận 6; Quyết định chuyển vật chứng số: 33/QĐ-VKS-Q6 ngày 27 tháng 4 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 6) Đối với 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus (số seri FCGVCA6LHG00) và số tiền 96.646.000 đồng thu giữ của bị cáo Lê Ngọc Thúy A, quá điều tra xác định là tài sản hợp pháp của bị cáo, không phải là vật chứng trong vụ án, nên Cơ quan điều tra Công an Quận 6 đã xử lý trả lại cho bị cáo (theo Biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu cùng ngày 22/02/2021 - BL130), do đó Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.

[7] Đối với bà Phan Thị Phương D, Viện kiểm sát xác định không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo Lê Ngọc Thúy A, do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[8] Bị cáo Lê Ngọc Thúy A phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số:

326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Lê Ngọc Thúy A phạm tội: «Trộm cắp tài sản».

- Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 173; điểm h, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 và Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Lê Ngọc Thúy A 02 (hai) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 04 (bốn) năm, kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Lê Ngọc Thúy A cho Ủy ban nhân dân Phường 13, Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo Lê Ngọc Thúy A có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát và giáo dục đối với bị cáo.

Trường hợp người được hưởng án treo vắng mặt tại nơi cư trú, thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 (hai) lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) balo màu xanh có chữ «Dấu ấn 45 năm SAIGONTOURIST»; 01 (một) balo màu đỏ có nhiều họa tiết hoa văn màu đỏ; 01 (một) túi nylon đựng khẩu trang có chữ «3D MASK»; 01 (một) bộ quần áo có họa tiết chuột Mickey.

- Căn cứ khoản 2 Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Lê Ngọc Thúy A phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

- Bị cáo Lê Ngọc Thúy A; bị hại Phạm Thị Mỹ L; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Lê Thị Thu T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày được tống đạt hoặc niêm yết bản án.

- Đã giải thích chế định án treo đối với bị cáo Lê Ngọc Thúy A.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 43/2021/HS-ST ngày 04/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:43/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 6 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;