Bản án 43/2021/HNGĐ-ST ngày 13/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN MINH, TỈNH KIÊN GIANG

 BẢN ÁN 43/2021/HNGĐ-ST NGÀY 13/05/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 13 tháng 5 năm 2021, tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số:292/2020/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 10 năm 2020 về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 05 tháng 4 năm 2021, giữa các đương sự:

1- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Lệ Nđ, sinh năm 1997. Địa chỉ: ấp SC, xã PT, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (xin xét xử vắng mặt).

2- Bị đơn: Anh Lê Thế Bđ, sinh năm 1996. Địa chỉ: ấp TT, xã TT, huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt lần thứ hai).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 23-7-2020 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Lệ Nđ trình bày và yêu cầu như sau:

Chị Nđ và anh Bđ chung sống với nhau năm 2013, sau đó anh chị có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã TT, huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang cấp giấy chứng nhận kết hôn. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh Bđ thường xuyên ghen tuông vô cớ nên vợ chồng thường xuyên cãi nhau, có lần anh còn đánh đập chửi mắng chị và thường xuyên đến chỗ làm của chị để quậy phá gây ảnh hưởng rất lớn đến công việc của chị, do mâu thuẫn của vợ chồng quá lớn nên anh chị đã ly thân từ tháng 5/2018 cho đến nay. Chị và anh Bđ có 01 đứa con chung tên Lê Nguyễn Nhật Lq, sinh ngày 17/7/2014, con do chị Nđ trực tiếp nuôi dưỡng từ khi vợ chồng ly thân cho đến nay. Vợ chồng không tranh chấp về tài sản chung, nợ chung.

Nay chị Nđ yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Bđ; yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con Lê Nguyễn Nhật Lq, không yêu cầu anh Bđ cấp dưỡng nuôi con cùng chị; về tài sản và nợ không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Lê Thế Bđ không có lời trình bày.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án thực hiện đầy đủ, đúng trình tự, thủ tục theo quy định pháp luật tố tụng dân sự; từ khi thụ lý vụ án đến nay nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình, bị đơn thực hiện chưa đúng. Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX cho chị Nđ được ly hôn với anh Bđ; giao con chung cho chị Nđ tiếp tục nuôi dưỡng, anh Bđ không cấp dưỡng nuôi con do chị Nđ không yêu cầu; về tài sản và nợ hiện không tranh chấp nên không xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh Bđ đều vắng mặt, không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và phiên tòa. Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng anh Bđ vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên HĐXX căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh Bđ. Nguyên đơn chị Nđ có đơn xin xét xử vắng mặt nên HĐXX căn cứ khoản 1 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị Nđ.

[2] Về quan hệ hôn nhân, chị Nđ và anh Bđ chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được UBND xã TT, huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang cấp Giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 22/02/2018 nên là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận theo quy định tại Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Chị Nđ và anh Bđ sống chung một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh, chị có nhiều bất đồng trong cuộc sống nhưng không thể khắc phục được. Anh chị đã ly thân từ năm 2018 đến nay nhưng không thể khắc phục được mâu thuẫn để vợ chồng tiếp tục chung sống. Khi Tòa án thông báo về yêu cầu ly hôn của chị Nđ thì anh Bđ không có ý kiến hay động tác gì để hàn gắn mà bỏ mặc; khi Tòa án tổ chức hòa giải đoàn tụ thì anh Bđ vắng mặt không tham dự. Việc anh Bđ không có ý kiến khi nguyên đơn xin ly hôn, không tham dự phiên hòa giải, phiên tòa vừa vi phạm nghĩa vụ bị đơn vừa đánh mất cơ hội hòa giải đoàn tụ tại Tòa án. Từ đó cho thấy giữa chị Nđ và anh Bđ mục đích hôn nhân đã không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, HĐXX căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, xử cho chị Nđ được ly hôn với anh Bđ.

[4] Về con chung, anh chị có 01 con chung tên Lê Nguyễn Nhật Lq, sinh ngày 17/7/2014 hiện sống chung với chị Nđ. Chị Nđ yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con sau khi ly hôn. Thấy rằng thời gian qua con chung được chị Nđ nuôi dưỡng, chăm sóc tốt, không xảy ra sơ suất gì; chị Nđ có thu nhập đủ để nuôi con. Do đó, HĐXX căn cứ khoản 1 Điều 81, khoản 2 Điều 81, khoản 3 Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình giao con chung cho chị Nđ trực tiếp nuôi dưỡng; anh Bđ không phải cấp dưỡng nuôi con do chị Nđ không yêu cầu.

[5] Về tài sản chung và nợ chung, hiện chị Nđ và anh Bđ không tranh chấp, không yêu cầu giải quyết, nên không xem xét.

[6] Về án phí, nguyên đơn chị Nđ phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn là 300.000đ theo quy định.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 266 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 9, Điều 56, khoản 1 Điều 81, khoản 2 Điều 81, khoản 3 Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Lệ Nđ và anh Lê Thế Bđ.

2. Về con chung: Giao con chưa thành niên tên Lê Nguyễn Nhật Lq, sinh ngày 17/7/2014 cho chị Nđ trực tiếp nuôi dưỡng sau khi ly hôn (hiện nay cháu Nhật Lq đang sống chung với chị Nđ); anh Bđ không phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị Nđ.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu nên không xem xét.

4. Về án phí: Chị Nđ chịu án phí dân sự sơ thẩm xin ly hôn là 300.000 đồng, khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng đã nộp tại biên lai thu số 0006058 ngày 19-10-2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Minh, chị Nđ đã nộp xong tiền án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

126
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 43/2021/HNGĐ-ST ngày 13/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:43/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Minh - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;