Bản án 43/2020/HS-ST ngày 29/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ GIÁO, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 43/2020/HS-ST NGÀY 29/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 44/2020/TLST-HS ngày 18 tháng 5 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 49/2020/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn D, sinh năm 1974 tại H N. Nơi cư trú: Ấp BR, xã VH, huyện PG, tỉnh BD; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ văn hóa (học vấn): 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H (đã chết) và bà Nguyễn Thị V (đã chết); vợ Nguyễn Thị H, sinh năm 1974, bị cáo có 02 con, lớn sinh năm 1996, nhỏ sinh năm 2005. Tiền án: 01 tiền án (Ngày 27/4/1998, bị Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội xử 48 tháng tù giam về tội “Cướp tài sản” theo Bản án số 696/HSPT, chưa xóa án tích); tiền sự: 02 tiền sự (Ngày 06/7/2016, Tòa án nhân dân huyện Phú Giáo ra Quyết định số 33/2016/QĐ-TA, áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; ngày 11/5/2018, Tòa án nhân dân huyện Phú Giáo ra Quyết định số 12/2018/QĐ-TA, áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc). Bị cáo Nguyễn Văn D bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/02/2020 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Phạm Ngọc Th, sinh năm 1985. Nơi cư trú: Ấp BR, xã VH, huyện PG, tỉnh BD. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Nguyễn Văn D là đối tượng nghiện ma túy, để có ma túy sử dụng nên khoảng 10 giờ 50 phút, ngày 14/02/2020, D sử dụng điện thoại di dộng hiệu OPPO số 0867194490 gọi vào số điện thoại 0937933302 của đối tượng tên Ý- là bạn của bị cáo D khi cả hai cùng chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy tỉnh Bình Dương (bị cáo D không biết họ tên đầy đủ và địa chỉ của Ý) để hỏi mua ma túy với số tiền 700.000đ (bảy trăm ngàn đồng) thì Ý đồng ý và hẹn D sẽ gửi ma túy cho D theo dạng gửi hàng hóa qua xe khách. Khoảng 13 giờ cùng ngày có số điện thoại (D không nhớ số) gọi điện cho D ra ngã ba Đài Loan, thuộc xã Vĩnh Hòa, huyện Phú Giáo nhận hàng. Biết đây là ma túy Ý gửi nên D đi bộ ra ngã ba Đài Loan, gặp tài xế xe khách Th Công (không rõ nhân thân của tài xế và biển số xe) lấy bịch nylon màu đen hàn kín bên trong có chứa ma túy đá. D đưa bịch ma túy về nhà tại số nhà 62, Ấp BR, xã VH, huyện PG, tỉnh BD. Khoảng 14 giờ, có đối tượng nam giới không rõ nhân thân gọi điện thoại cho D ra trước cây xăng Ngọc Ánh, thuộc xã Vĩnh Hòa để đưa số tiền 700.000đ (bảy trăm ngàn đồng) mà D mua ma túy của Ý. Sau khi ra trả số tiền 700.000đ (bảy trăm ngàn đồng) xong, D quay về nhà gọi điện thoại cho bạn tên Phạm Ngọc Th và rủ Th đến nhà D cùng sử dụng ma túy. Khi Th đến nhà D thì D lấy bịch ma túy đã mua trước đó phân ra một ít ma túy bỏ vào đoạn ống hút hàn kín một đầu. D nói với Th: “Cái này cho mày tí mang về”. Th đồng ý rồi cầm đoạn ống hút có chứa ma túy đá hàn kín đầu ống hút còn lại, sau đó Th để ống hút có chứa ma túy lên bàn. D tiếp tục lấy ra một ít ma túy trong bịch bỏ vào nỏ thủy tinh để D và Th sử dụng. Số ma túy còn lại trong bịch nylon D hàn kín lại rồi để xuống bàn cạnh đoạn ống hút có chứa ma túy mà D đã cho Th. Khi D và Th đang sử dụng ma túy thì bị lực lượng Công an bắt quả tang và thu giữ vật chứng gồm:

- 01 bịch nylon hàn kín bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng (nghi là ma túy, được ký hiệu M1);

- 01 đoạn ống hút nhựa hàn kín bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng (nghi là ma túy, được ký hiệu M2);

- 01 ống thủy tinh hình phễu bên trong có chứa chất rắn màu nâu (nghi là ma túy, được ký hiệu M3).

- 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy.

- 01 điện thoại di dộng hiệu OPPO có gắn thẻ sim số 0867194490.

Cơ quan điều tra đã khám xét khẩn cấp nơi ở của Phạm Ngọc Th tại số nhà 669/2, tổ 1, Ấp BR, xã VH, huyện PG, tỉnh BD. Qua khám xét thu giữ 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy.

Kết luận giám định số: 66/MT-PC09 ngày 21/02/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng và chất rắn màu nâu, gửi giám định đều là ma túy, có khối lượng: 1,3598 gam (M1); 0,0965 gam (M2); 0,0312 gam (M3), loại Methamphetamine.

Đối với đối tượng tên Ý (là người bán ma túy cho Nguyễn Văn D), Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành thu giữ điện tín nhưng chưa có kết quả và người tài xế xe khách Th Công đã vận chuyển ma túy đưa cho D, hiện chưa rõ nhân thân lai lịch. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Giáo sẽ tiếp tục điều tra làm rõ, đề xuất xử lý sau.

Đối với hành vi tàng trữ trái phép 0,0965 gam ma túy (Methamphetamin) của Phạm Ngọc Th không đủ yếu tố để truy cứu trách nhiệm hình sự nên ngày 26/4/2020, Công an huyện Phú Giáo đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng.

Cáo trạng số 45/CT-VKSPG ngày 15/5/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo truy tố bị cáo Nguyễn Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như nội dung bản cáo trạng. Đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả, hành vi phạm tội của bị cáo, Kiểm sát viên đề nghị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự và đề nghị cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Th khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, đồng thời đề nghị xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

- Đề nghị tịch thu tiêu hu 01 (một) Bì thư niêm phong ký hiệu 66/PC09 M1 trọng lượng 0,9942 gam và 01 (một) Bì thư niêm phong ký hiệu 66/PC09 M2 trọng lượng 0,0511 gam có hình dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự – Công an tỉnh Bình Dương và 02 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đã qua sử dụng.

- Đề nghị tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động OPPO có gắn thẻ sim 867194490 (niêm phong có chữ ký của Trần Văn Sáng, Phạm Thị Hồng và hình dấu đỏ của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Giáo) là phương tiện mà Nguyễn Văn D sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội.

Phần tranh luận, bị cáo không có ý kiến tranh luận, đồng ý với tội danh và mức hình phạt mà vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị. Trong lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về sự vắng mặt của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Phạm Ngọc Th có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, đã có lời khai trong hồ sơ vụ án, việc vắng mặt không gây trở ngại cho việc xét xử. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định tại Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Hội đồng xét xử xét thấy các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là phù hợp quy định của pháp luật.

[3] Về nội dung vụ án: Ngày 14/02/2020, bị cáo Nguyễn Văn D sử dụng điện thoại di dộng hiệu OPPO số 0867194490 gọi vào số tiện thoại 0937933302 của đối tượng tên Ý- là bạn của bị cáo D khi cả hai cùng chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy tỉnh Bình Dương (bị cáo D không biết họ tên đầy đủ và địa chỉ của Ý) hỏi mua ma túy đá với số tiền là 700.000đ (bảy trăm ngàn đồng), mục đích mua là để sử dụng vì bị cáo D nghiện ma túy. Sau khi nhận được ma túy, thanh toán tiền xong, bị cáo rủ Phạm Ngọc Th đến nhà của bị cáo thuộc Ấp BR, xã VH, huyện PG, tỉnh BD để cùng sử dụng thì bị lực lượng Công an bắt quả tang, niêm phong số lượng ma túy.

Bản kết luận giám định số 66/MT-PC09 ngày 21/02/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy, khối lượng 1,3598 gam (M1); 0,0965 gam (M2); 0,0312 gam (M3) loại Methamphetamine.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn D khai nhận: Nội dung Cáo trạng mà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Giáo công bố tại phiên tòa giống với Cáo trạng mà bị cáo đã nhận và phù hợp với diễn biến sự việc, hành vi của bị cáo.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cùng với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Về nhận thức, bị cáo biết được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Bị cáo đủ tuổi, đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 12 của Bộ luật Hình sự.

Với các tình tiết của vụ án được chứng minh tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có đủ chứng cứ kết luận bị cáo Nguyễn Văn D đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự đúng như nội dung Cáo trạng đã truy tố.

[4] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội; tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Xét thấy, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước. Trước tình hình mua bán, nghiện hút ma túy đang diễn ra phức tạp như hiện nay, nhà nước ta có nhiều chủ trương, biện pháp nhằm chặn đứng và đẩy lùi tệ nạn này nhưng do nhiều nguyên nhân tệ nạn ma túy vẫn đang là mối quan tâm, lo lắng của toàn xã hội. Một trong những nguyên nhân này là do hành vi tàng trữ, sử dụng ma túy của bị cáo. Xét động cơ, mục đích phạm tội vì muốn thỏa mãn nhu cầu của bản thân, không nghĩ đến sự trừng phạt của pháp luật nên bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Bản thân bị cáo đã có 01 tiền án về tội cướp tài sản, 02 tiền sự về hành vi sử dụng trái phép ma túy bị Tòa án áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, sau khi cai nghiện bị cáo không từ bỏ ma túy mà tiếp tục phạm tội. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt thật nghiêm tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo nhằm trừng trị, giáo dục bị cáo trở Th người công dân tốt cho xã hội và đảm bảo công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã bị xử phạt tù về tội “Cướp tài sản” theo Bản án số 696/HSPT ngày 27/4/1997 của Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội, bị cáo chưa được xóa án tích nay bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý nên thuộc trường hợp tái phạm quy định tại khoản 1 Điều 53 của Bộ luật Hình sự và là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Th khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, để bị cáo thấy được chính sách khoan hồng của pháp luật, sớm nhận ra lỗi lầm của mình, an tâm cải tạo trở Th công dân tốt cho xã hội.

Đối tượng tên Ý là người bán ma túy cho bị cáo Nguyễn Văn D. Tại phiên tòa bị cáo khai Ý là bạn của bị cáo khi cả hai cùng chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy tỉnh Bình Dương, địa chỉ: Xã Tam Lập, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương. Kiến nghị Cơ quan điều tra Công an huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương xác minh, làm rõ hành vi mua bán trái phép chất ma túy của đối tượng Ý để xứ lý theo quy định của pháp luật.

Đối với hành vi tàng trữ trái phép 0,0965 gam ma túy (Methamphetamin) của Phạm Ngọc Th (số ma túy này là của bị cáo D cho Th để sử dụng) không đủ yếu tố để truy cứu trách nhiệm hình sự nên ngày 26/4/2020, Công an huyện Phú Giáo đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng là phù hợp quy định của pháp luật.

[5] Về xử lý vật chứng:

- 01 (một) Bì thư niêm phong ký hiệu 66/PC09 M1 trọng lượng 0,9942 gam (trọng lượng ma túy sau giám định) và 01 (một) Bì thư niêm phong ký hiệu 66/PC09 M2 trọng lượng 0,0511 gam (trọng lượng ma túy sau giám định) có hình dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự – Công an tỉnh Bình Dương; 02 bộ dụng cụ sử dụng ma túy. Đây là vật cấm tàng trữ lưu hành và vật không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động OPPO (có gắn thẻ sim 867194490) niêm phong có chữ ký của Trần Văn Sáng, Phạm Thị Hồng và hình dấu đỏ của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Giáo là phương tiện mà Nguyễn Văn D sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội nên tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

Xét thấy, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, hình phạt, xử lý vật chứng là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma múy”.

2. Về điều luật áp dụng và mức hình phạt:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, khoản 1 Điều 53, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/02/2020.

3. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hu : 01 (một) Bì thư niêm phong ký hiệu 66/PC09 M1 trọng lượng 0,9942 gam (trọng lượng ma túy sau giám định) và 01 (một) Bì thư niêm phong ký hiệu 66/PC09 M2 trọng lượng 0,0511 gam (trọng lượng ma túy sau giám định) có hình dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự – Công an tỉnh Bình Dương; 02 bộ dụng cụ sử dụng ma túy.

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động OPPO (có gắn thẻ sim 867194490) được niêm phong có chữ ký của Trần Văn Sáng, Phạm Thị Hồng và hình dấu đỏ của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Giáo.

(thể hiện tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 15 tháng 5 năm 2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Giáo và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Giáo).

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng các Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 và điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/PL/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án buộc:

Bị cáo Nguyễn Văn D phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 43/2020/HS-ST ngày 29/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:43/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Giáo - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;