Bản án 43/2020/HS-ST ngày 22/10/2020 về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠC SƠN, TỈNH HOÀ BÌNH

BẢN ÁN 43/2020/HS-ST NGÀY 22/10/2020 VỀ TỘI HIẾP DÂM NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI

Ngày 22 tháng 10 năm 2020. Tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn xét xử sơ thẩm kín vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 40/2020/TLST-HS ngày 16 tháng 09 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 43/2020/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo: Bùi Văn N, sinh ngày 19/02/2000 tại xã M, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Nơi cư trú: xóm T, xã M, huyện L, tỉnh Hòa Bình; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ học vấn: 8/12; Dân tộc: Mường; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn K, sinh năm 1978 và bà Bùi Thị T, sinh năm 1974; bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: 01 tiền án, ngày 22/02/2019 bị Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn xử phạt 18 tháng tù về tội Cướp giật tài sản; tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/03/2020 đến nay; được trích xuất, có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Bùi Văn Mạnh– Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Hòa Bình (có mặt).

- Bị hại: Bùi Huyền T, sinh ngày 07/11/2008. Nơi cư trú: Xóm D, xã M, huyện L, tỉnh Hòa Bình (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Người đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Bùi Thị C, sinh năm 1981. Nơi cư trú: Xóm C, xã Q, huyện L, tỉnh Hòa Bình (có mặt).

Người bảo về quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại: Bà Nguyễn Thị Hồng Nhung– Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Hòa Bình (có đơn xin xét xử vắng mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Bùi Văn K, sinh năm 1978. Nơi cư trú: Xóm T, xã M, huyện L, tỉnh Hòa Bình (có mặt).

- Người làm chứng:

+ Bùi Khánh N, sinh năm 2010. Nơi cư trú: Xóm D, xã M, huyện L, tỉnh Hòa Bình Người đại diện: Ông Bùi Văn C, sinh năm 1985. Nơi cư trú: Xóm D, xã M, huyện L, tỉnh Hòa Bình

+ Bùi Đinh Quỳnh H, sinh năm 2008 và Bùi Tấn S, sinh năm 2013. Nơi cư trú:

Xóm D, xã M, huyện L, tỉnh Hòa Bình Người đại diện cho cháu H, S: Ông Bùi Văn H, sinh năm 1980. Nơi cư trú: Xóm D, xã M, huyện L, tỉnh Hòa Bình

+ Bùi Thanh S, sinh năm 2010. Nơi cư trú: Xóm D, xã M, huyện L, tỉnh Hòa Bình Người đại diện: Ông Bùi Văn D, sinh năm 1986. Nơi cư trú: Xóm D, xã M, huyện L, tỉnh Hòa Bình

+ Bùi Thu H, sinh năm 2009 và Bùi Trà G, sinh năm 2010. Nơi cư trú: Xóm T, xã M, huyện L, tỉnh Hòa Bình

Người đại diện: Bà Quách Thị L, sinh năm 1982. Nơi cư trú: Xóm D, xã M, huyện L, tỉnh Hòa Bình

+ Bùi Thị Thu N, sinh năm 2012. Nơi cư trú: Xóm D, xã M, huyện L, tỉnh Hòa Bình

Người đại diện: Ông Bùi Văn T, sinh năm 1984. Nơi cư trú: Xóm D, xã M, huyện L, tỉnh Hòa Bình (Các nhân chứng và người đại diện đều vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 21 giờ ngày 13/03/2020, Bùi Văn N đến ăn cơm, uống rượu tại đám cưới của gia đình ông Bùi Văn I, sinh năm 1973, trú tại xóm D, xã M, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Sau khi ăn xong, N đi ra bên ngoài rạp đám cưới chơi thì gặp cháu Bùi Huyền T, sinh ngày 07 tháng 11 năm 2008 đang chơi trốn tìm cùng các bạn. Lúc này, N đi sang nói chuyện với cháu T thì cháu T hỏi mượn điện thoại của N để vào mạng chơi nhưng N không cho. Sau đó, cháu T tiếp tục chơi trốn tìm với các bạn và đi ra phía ruộng trồng ngô cách rạp đám cưới khoảng 300 mét chơi thì lại gặp N ở đó.

Tại đây, Nhật nảy sinh ham muốn tình dục nên đã tiến lại gần cháu T thì thấy các bạn của cháu T là Bùi Đinh Quỳnh H, Bùi Thu H, Bùi Khánh N, Bùi Thanh S, Bùi Thị Thu N và Bùi Trà G soi đèn pin tìm T để chơi trốn tìm nên N cúi thấp xuống đất để nấp. Khi thấy các bạn của cháu T đi đến gần thì N đứng dậy làm các bạn cháu T hoảng sợ bỏ chạy hết về rạp đám cưới.

Lúc này, chỉ còn lại N và cháu T ở lại ruộng ngô, N đã lấy tay ôm cháu T và hôn vào má, miệng, cổ cháu T rồi dùng tay phải cởi cúc áo bên ngoài của cháu T ra để lộ áo lót và vùng ngực. Sau đó, N tiếp tục dùng tay phải cởi quần dài và quần lót của cháu T, kéo xuống đến đầu gối rồi dùng hai tay vật cháu T nằm ngửa xuống đất. Đồng thời, N tự cởi quần của mình xuống đến đầu gối và dùng tay phải sờ bóp ngực của cháu T, còn tay trái nắm giữ chặt tay của cháu T khiến cháu T không cựa quậy được. Khi đó, cháu T có dùng chân đẩy vào người N và dùng tay nắm lấy cây cỏ do quá sợ hãi. Vì còn nhỏ tuổi và bị N khống chế, uy hiếp nên cháu T sợ hãi nằm yên, không nói gì.

Trong khi cháu T đang nằm ngửa thì N dùng tay phải cầm dương vật của mình ấn vào bên trong âm đạo của cháu T rồi nằm đè úp lên người cháu T và thực hiện hành vi giao cấu. N giao cấu được khoảng 10 phút thì phát hiện thấy có người đi qua đường soi đèn pin, nghĩ là bạn của cháu T đi tìm nên N dừng lại không giao cấu với cháu T nữa mà đứng dậy kéo quần của mình lên. Cháu T cũng đứng dậy tự mặc quần áo. Trong quá trình mặc quần áo thì cháu T có nhặt được điện thoại của N đánh rơi và cầm điện thoại đi về phía rạp đám cưới. N đi theo cháu T về gần đến rạp đám cưới để đòi điện thoại thì cháu T trả lại điện thoại cho N. Sau đó, N ở lại đám cưới chơi còn cháu T đi về nhà cùng bố mẹ.

Khi về đến nhà, thấy con trong tình trạng đầu tóc bù xù, quần áo dính bẩn và tinh thần hoảng sợ, bà Bùi Thị C (là mẹ đẻ của cháu T) có gặng hỏi thì được cháu T kể lại toàn bộ sự việc bị N xâm hại. Đến khoảng 22 giờ 45 cùng ngày, bà C đã gửi đơn trình báo đến Công an xã M về sự việc trên. Đến khoảng 6 giờ ngày 14/03/2020, Bùi Văn N đã đến Công an xã M để đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại bản kết luận giám định pháp y về tình dục nữ số 24/TD ngày 16/03/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Hòa Bình kết luận: Tại phần giám định ghi “ Màng trinh: Rách vị trí 3h, 9h, vết rách chưa liền sẹo”. Tại phần kết luận ghi: “Bùi Huyền T, sinh năm 2008, cơ thể phát triển phù hợp với lứa tuổi. Môi lớn, môi bé bình thường. Màng trinh rách vị trí 3h, 9h. Hiện tại không có thai trong buồng tử cung. HIV âm tính”.

Tại bản kết luận giám định pháp y về tình dục nam số 25/TD ngày 16/03/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Hòa Bình kết luận: “Bùi Văn N, sinh năm 2000, trên bộ phận sinh dục ngoài không thấy dấu vết của thương tích, khả năng hoạt động tình dục bình thường. Hiện tại HIV âm tính”.

* Vật chứng của vụ án, quá trình điều tra đã thu giữ:

+ 01 (một) áo sơ mi dài tay, màu trắng, kích thước 67 x 50 cm, toàn bộ mặt trước và mặt sau áo bám dính tạp chất màu nâu; 01 (một) quần bò màu xanh, kích thước 80 x 36 cm, toàn bộ mặt trước và mặt sau quần bám dính tạp chất màu nâu;

01 (một) quần lót màu đỏ, kích thước 28 x 19 cm, đũng quần bám dính tạp chất màu nâu diện 6x4 cm được niêm phong theo quy định.

Hiện các vật chứng trên được chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lạc Sơn bảo quản chờ giải quyết theo quy định.

Đối với gia đình ông Bùi Văn I tổ chức đám cưới tại gia đình nhưng không biết sự việc trên. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lạc Sơn không đề cập xử lý.

Về trách nhiệm dân sự: Trước khi mở phiên tòa, đại diện hợp pháp của bị hại có đơn yêu cầu Bùi Văn N bồi thường số tiền: 100.000.000đ (một trăm triệu đồng) là số tiền đền bù tổn hại sức khỏe, tinh thần, danh dự, nhân phẩm cho cháu T.

Trước khi mở phiên tòa bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho bị hại số tiền 10.500.000đ (mười triệu năm trăm nghìn đồng).

Quá trình điều tra Bùi Văn N đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị hại và phù hợp với tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Tại bản Cáo trạng số 41/CT-VKS ngày 15 tháng 09 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn đã truy tố Bùi Văn N về tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi” theo điểm b khoản 1 Điều 142 của Bộ luật hình sự 2015.

Thực hành quyền công tố tại phiên toà, đại diện VKSND huyện Lạc Sơn, sau khi xem xét, đánh giá toàn bộ nội dung vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; trình bày quan điểm và luận tội: Giữ nguyên cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 142 Bộ luật hình sự tuyên bố bị cáo Bùi Văn N phạm tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi”; đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 142; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Văn N từ 9 đến 10 năm tù; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo và giải quyết các vấn đề khác theo quy định.

o chữa cho bị cáo Bùi Văn N, quan điểm của Trợ giúp viên pháp lý Bùi Văn Mạnh: Đồng ý với tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử xem xét điều kiện, hoàn cảnh phạm tội, nhân thân để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo theo hướng cho bị cáo được hưởng mức án đầu khung hình phạt.

Quan điểm của người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho người bị hại, Trợ giúp viên pháp lý Nguyễn Thị Hồng Nhung: Nhất trí về phần tội danh, các điều luật mà đại diện Viện kiểm sát buộc tội đối với bị cáo; đồng thời cũng đề nghị HĐXX xem xét xử lý nghiêm đối với hành vi phạm tội của bị cáo.

Bị cáo Bùi Văn N đồng ý với tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn truy tố, nhất trí với quan điểm của người bào chữa, không có ý kiến bổ sung và xin giảm nhẹ hình phạt. Đại diện hợp pháp của bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường theo quy định, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội. Những người tham gia tố tụng khác, không ai có ý kiến hay yêu cầu gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra công an huyện Lạc Sơn, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có ai có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy lời khai nhận của bị cáo có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ khác như: Biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm; đơn xin đầu thú của bị cáo; biên bản khám nghiệm và bản ảnh hiện trường; bản kết luận giám định pháp y về tình dục nam, nữ số 24/TD và 25/TD ngày 16/03/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Hòa Bình; lời khai của bị hại, người làm chứng cùng các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 21 giờ 00 phút, ngày 13/03/2020 tại xóm D, xã M, huyện L, tỉnh Hòa Bình, Bùi Văn N đã thực hiện hành vi giao cấu trái ý muốn với cháu Bùi Huyền T, sinh ngày 07/11/2008 (tính đến bị xâm hại, cháu Bùi Huyền T 11 tuổi 07 tháng 06 ngày) nhằm thỏa mãn dục vọng cá nhân. Vì vậy, việc bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn truy tố về tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 142 của BLHS là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi mà bị cáo Bùi Văn N thực hiện có tính chất rất nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm hại đến danh dự nhân phẩm và sức khỏe của cháu Bùi Huyền T vi phạm pháp luật hình sự, Luật bảo vệ và chăm sóc trẻ em, vi phạm thuần phong mỹ tục của dân tộc, gây ảnh hưởng xấu trong dư luận, trật tự trị an trong xã hội. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đủ khả năng nhận thức được tính chất, mức độ sai trái do hành vi gây ra. Do vậy, bị cáo phải hoàn toàn chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đã thực hiện.

[4] Xét nguyên nhân và điều kiện phạm tội: Do bị cáo ham muốn dục vọng nhất thời. Mặt khác bị hại đang ở độ tuổi trẻ em nên chưa có khả năng nhận thức để tự bảo vệ mình cũng là nguyên nhân, điều kiện để bị cáo thực hiện hành vi phạm tội.

[5] Xét nhân thân: Trước khi phạm tội bị cáo Bùi Văn N có nhân thân xấu, cụ thể năm 2019 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn xử phạt 18 tháng tù về tội Cướp giật tài sản, tuy nhiên bị cáo không lấy đấy là bài học để từ bỏ mà vẫn tiếp tục dẫn sâu vào con đường phạm tội, điều này cho thấy ý thức coi thường pháp luật, khó cải tạo của bị cáo.

[6] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối lỗi; khi hành vi phạm tội bị phát giác bị cáo đã ra đầu thú; bị cáo đã tác động gia đình bồi thường khắc phục một phần hậu quả. Mặt khác bị cáo là người dân tộc thiểu số (dân tộc Mường) sinh sống ở vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; trong quá trình giải quyết vụ án, đại diện hợp pháp của bị hại có ý kiến xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo theo quy định tại các điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo Bùi Văn N đã chấp hành xong hình phạt của bản án trước, nhưng chưa đủ thời gian để được xóa án tích, do đó lần phạm tội này bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

[7] Hội đồng xét xử xét thấy quan điểm của các Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại tại phiên tòa là có căn cứ pháp lý. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần quan điểm bào chữa, bảo vệ, sẽ xem xét trong quá trình lượng hình.

[8] Cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và tình tiết cụ thể của vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải có một hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất, hành vi mà bị cáo đã thực hiện. Do đó, việc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo cũng như đáp ứng mục đích đấu tranh phòng ngừa tội phạm trên địa bàn là cần thiết. Ngoài ra, theo quy định tại khoản 4 Điều 142 Bộ luật hình sự, bị cáo còn có thể bị phạt bổ sung. Song xem xét cụ thể trường hợp của bị cáo, xét thấy việc áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là không cần thiết.

[9]Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa đại diện hợp pháp của bị hại thay đổi mức bồi thường thiệt hại, yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng). Xét thấy, yêu cầu bồi thường của bị hại tuy không có hóa đơn chứng từ nhưng là thiệt hại thực tế và các chi phí hợp lý; thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của bị cáo; mặt khác bị cáo chấp nhận yêu cầu bồi thường. Do đó, buộc bị cáo phải bồi thường theo mức yêu cầu của đại diện hợp pháp của bị hại và được đối trừ số tiền 10.500.000đ (mười triệu năm trăm nghìn đồng) đã bồi thường, nay còn phải tiếp tục bồi thường số tiền 39.500.000đ (ba mươi chín triệu, năm trăm nghìn đồng).

[10] Về vật chứng vụ án: Tại phiên tòa đại diện hợp pháp của bị hại đề nghị xuất hủy vật chứng. Hội đồng xét xử xét thấy các vật chứng không còn giá trị sử dụng nên cần tuyên tịch thu xuất hủy.

[11]Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự trong vụ án hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 142; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 ; Điều 38 của Bộ luật hình sự:

+ Tuyên bố: Bị cáo Bùi Văn N phạm tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi”.

+ Xử phạt: Bị cáo Bùi Văn N 09 (chín) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ 14/03/2020.

2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 584; 585; 590; 592; khoản 2 Điều 357; khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự, buộc bị cáo Bùi Văn N phải bồi thường cho bị hại Bùi Huyền T số tiền 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng); được đối trừ 10.500.000đ (mười triệu, năm trăm nghìn đồng) đã bồi thường trước khi mở phiên tòa, nay còn phải tiếp tục bồi thường số tiền 39.500.000đ (ba mươi chín triệu, năm trăm nghìn đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn đề nghị thi hành án cho đến khi thi hành xong các khoản tiền,nếu chậm trả thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015 tương ứng với thời gian chậm thi hành án.

Trường hợp Quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7,7a và 9 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi bổ sung năm 2014). Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi bổ sung năm 2014).

3.Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự;

điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên tịch thu để xuất huỷ đối với: 01 (một) áo sơ mi dài tay, màu trắng, kích thước 67 x 50 cm, toàn bộ mặt trước và mặt sau áo bám dính tạp chất màu nâu; 01 (một) quần bò màu xanh, kích thước 80 x 36 cm, toàn bộ mặt trước và mặt sau quần bám dính tạp chất màu nâu;

01(một) quần lót màu đỏ, kích thước 28 x 19 cm, đũng quần bám dính tạp chất màu nâu diện 6x4 cm được niêm phong theo quy định.

(Vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng giữa công an huyện Lạc Sơn và Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạc Sơn ngày 15/09/2020).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a, c khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo Bùi Văn N phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 1.975.000đ (một triệu chín trăm bảy mươi lăm nghìn đồng) án phí dân sự trong vụ án hình sự.

5. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo; đại diện hợp pháp của bị hại; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án hoặc trích lục án được niêm yết công khai hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

398
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 43/2020/HS-ST ngày 22/10/2020 về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi

Số hiệu:43/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạc Sơn - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;