Bản án 43/2020/HNGĐ-ST ngày 21/07/2020 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẾN TRE, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 43/2020/HNGĐ-ST NGÀY 21/07/2020 VỀ LY HÔN

Ngày 21 tháng 7 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 209/2020/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 6 năm 2020 Về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 47/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Bùi Thị Huỳnh Tr, sinh năm: 1988. Hộ khẩu thường trú: ấp A, xã X, thành phố B, tỉnh Bến Tre. Địa chỉ tạm trú: Thôn A, xã H, huyện N, tỉnh Bình Thuận.

2. Bị đơn: Ông Dương Phước T, sinh năm: 1984. Địa chỉ: ấp A, xã X, thành phố B, tỉnh Bến Tre (Ông T có mặt, bà Tr có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện; đơn xin vắng mặt tại Tòa và các văn bản, tài liệu chứng cứ cung cấp cho Tòa án, nguyên đơn bà Bùi Thị Huỳnh Tr trình bày:

Bà và ông T tự nguyện kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã A, thành phố B, tỉnh Bến Tre cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 12/11/2013. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc. Đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẩn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống nên vợ chồng thường bất hòa với nhau. Bà và ông T đã ly thân từ năm 2016 cho đến nay. Nay bà xác định không còn tình cảm với ông T nên yêu cầu tòa án giải quyết cho bà ly hôn với ông T.

Về con chung: có một con chung là Dương Ngọc Trâm Anh, sinh ngày 13/3/2014, hiện nay con chung đang sống với cha là ông T, bà đồng ý để ông T trực tiếp nuôi con chung, bà không cấp dưỡng.

Về tài sản chung và nợ chung: không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do bận công việc và ở xa nên bà không thể đến Tòa án tham gia giải quyết việc ly hôn giữa bà và ông T. Vì vậy, bà có đơn xin vắng mặt tất cả các lần giải quyết vụ án tại Tòa án.

Tại bản t khai và tại phiên tòa, bị đơn ông Dương Phước T trình bày:

Ông và bà Tr tự nguyện kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã A, thành phố B, tỉnh Bến Tre cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 12/11/2013. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc. Đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẩn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống nên vợ chồng thường bất hòa với nhau. Ông và bà Tr đã ly thân từ năm 2016 cho đến nay. Nay bà Tr yêu cầu ly hôn tôi cũng đồng ý.

Về con chung: có một con chung là Dương Ngọc X, sinh ngày 13/3/2014, hiện nay con chung đang sống với ông, ông yêu cầu được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu cấp dưỡng.

Về tài sản chung và nợ chung: không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bến Tre có ý kiến: Quá trình tiến hành tố tụng Thẩm phán, Thư ký, Hội thẩm nhân dân thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Về nội dung: đề nghị áp dụng Điều 51, 56, 58, 81 đến 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn; Về con chung: đề nghị Hội đồng xét xử giao con chung là cháu Dương Ngọc Trâm Anh, sinh ngày 13/3/2014 cho ông T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và ghi nhận việc ông T không yêu cầu bà Tr cấp dưỡng cho con; Về tài sản chung và nợ chung do hai bên cùng khai không có nên đề nghị không xem xét, giải quyết trong vụ án này.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Bị đơn ông T hiện đang cư trú tại thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre theo quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguyên đơn bà Bùi Thị Huỳnh Tr có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà Tr theo quy định tại khoản 1 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: bà Tr và ông T tự nguyện kết hôn năm 2013 và được Ủy ban nhân dân xã Nhơn Thạnh, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 12/11/2013 nên hôn nhân của ông bà được xem là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được thời gian đầu. Đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẩn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống nên vợ chồng thường bất hòa với nhau. Ông bà đã ly thân từ năm 2016 cho đến nay.

Tại phiên tòa, bị đơn ông T cũng thừa nhận những mâu thuẫn trong đời sống vợ chồng là có thật. Thời gian ông bà ly thân từ năm 2016 đến nay, cả hai không thể nào hàn gắn lại tình cảm và ông cũng đồng ý ly hôn với bà Tr. Điều này cho thấy tình trạng hôn nhân của ông bà đã đến trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên ly hôn là biện pháp tốt nhất cho cả hai. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Tr.

Về con chung: có một con chung là Dương Ngọc X, sinh ngày 13/3/2014, hiện nay con chung đang sống với ông T, tại phiên tòa, ông T yêu cầu được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu bà Tr cấp dưỡng, Điều này phù hợp với ý kiến của bà Tr tại đơn khởi kiện và đơn xin vắng mặt của bà nên Hội đồng xét xử chấp nhận giao con chung cho ông T trực tiếp nuôi dưỡng. Ông T có công việc và thu nhập ổn định và không yêu cầu bà Tr cấp dưỡng cho con nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Về tài sản chung và nợ chung: bà Tr và ông T cùng khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3] Về án phí: Án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng bà Tr phải chịu.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; các Điều 147, 227, 228, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 51, 56, 58 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Nghị quyết số 326/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định Về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Bùi Thị Huỳnh Tr, cụ thể tuyên:

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Bùi Thị Huỳnh Tr được ly hôn với ông Dương Phước T.

2. Về con chung: có một con chung là Dương Ngọc X, sinh ngày 13/3/2014. Sau khi ly hôn, ông Dương Phước T được trực tiếp nuôi con chung. Ghi nhận việc ông T không yêu cầu bà Tr cấp dưỡng cho con.

Người không trực tiếp nuôi con được quyền đến thăm, chăm sóc và giáo dục con chung.

Vì quyền và lợi ích mọi mặt của con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Tr và ông T cùng khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng bà Tr phải nộp nhưng được khấu trừ theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0011866 ngày 11/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre.

Nguyên đơn bà Tr được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai. Bị đơn ông T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 43/2020/HNGĐ-ST ngày 21/07/2020 về ly hôn

Số hiệu:43/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bến Tre - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;