Bản án 43/2019/HS-ST ngày 26/07/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỐNG NHẤT - TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 43/2019/HS-ST NGÀY 26/07/2019 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 26 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 38/2019/TLST-HS ngày 13 tháng 6 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 43/2019/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Thành T, tên gọi khác T; sinh năm 1986, tại tỉnh Đồng Nai; nơi đăng ký HKTT: khu 2, ấp B, xã H, huyện T, tỉnh Đồng Nai; nơi cư trú: như trên; nghề nghiệp:lái xe; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T; sinh năm 1949 và bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1951; vợ là Nguyễn Thị Tuyết N, sinh năm 1987 (đã ly hôn); có 01 con chung, sinh năm 2007. Tiền án, tiền sự: không Bị cáo được tại ngoại điều tra; bị cáo có mặt.

- Người đại diện hợp pháp của bị hại (Huỳnh Phú T, chết ngày 08/12/2018)ông Huỳnh Trúc B; sinh năm 1978; bà Trần Thu T, sinh năm 1970; cùng địa chỉ: ấp H, xã T, huyện V, tỉnh Đồng Tháp (vắng mặt) Bị hại: Anh Võ Đan Huy - sinh năm 2000.

Địa chỉ: Ấp A, xã T, huyện V, tỉnh Đồng Tháp (vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

+ Anh Nguyễn Khánh L - sinh năm 2000.

Địa chỉ: số 68, ấp H, xã H, huyện C, tỉnh Tây Ninh (vắng mặt).

Bị đơn dân sự: Ông Đào Văn Hằng - sinh năm 1967.

Địa chỉ: Ấp P, xã C, huyện Q, tỉnh Đồng Nai (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào sáng ngày 06/12/2018, Nguyễn Thành T không có giấy phép lái xe ô tô hạng E theo quy định, điều khiển xe ô tô chở khách 52 chỗ ngồi biển số 60B-026.83 đi trên quốc lộ 1A theo hướng từ Dầu Giây về huyện N. Đến khoảng 5 giờ 50 phút cùng ngày, khi đến km 1837+100, Quốc lô 1A thuộc ấp Hưng Nghĩa, xã L, huyện N, tỉnh Đồng Nai, Nguyễn Thành T quan sát thấy phía trước cùng chiều có 01 xe ô tô loại 16 chỗ ngồi đang lưu thông với tốc độ chậm nên T bật tín hiệu bên phải và điều khiển xe ô tô sang làn đường hỗn hợp phía bên phải và tăng tốc độ xe ô tô biển số 60B-026.83 để vượt xe ô tô 16 chỗ. Khi xe ô tô biển số 60B-026.83 do Nguyễn Thành T điều khiển chạy song song với xe 16 chỗ thì phát hiện phía trước cùng chiều có xe mô tô biển số 70K1-063.74 do anh Huỳnh Phú Th (sinh năm 2000; trú tại ấp T, xã T, huyện V, tỉnh Đồng Tháp; anh T không có giấy phép lái xe mô tô theo quy định), điều khiển chở anh Võ Đan H (sinh năm 2000; trú tại ấp A, xã T, huyện V, tỉnh Đồng Tháp) ngồi sau lưu thông cùng chiều phía trước. Do phát hiện xe mô tô biển số 70K1-063.74 anh T điều khiển chạy cùng chiều phía trước ở khoảng cách gần và vượt bên phải xe ô tô sai quy định, Nguyễn Thành T xử lý không kịp, cản phía trước đầu xe ô tô biển số 60B-026.83 va đụng vào phía sau xe mô tô do anh T điều khiển và đẩy xe mô tô biển số 70K1-063.74 đi một đoạn dài 62m70 rồi dừng lại trên làn đường hỗn hợp, anh Huỳnh Phú T và anh Võ Đan H ngã xuống đường. Hậu quả anh Huỳnh Phú Th bị thương nặng được đưa đi cấp cứu cho đến ngày 08/12/2018 chết tại bệnh viện Bình Dân, anh H bị thương nhẹ, xe ô tô và mô tô bị hư hỏng.

Kết quả khám nghiệm xác định hiện trường như sau:

Vụ tai nạn giao thông xảy ra trên đoạn đường đôi, mặt đường trải bê tông nhựa rộng 16m, đường hai chiều ở giữa là dãy phân cách cứng bằng bê tông.

Lấy hướng từ Dầu Giây về Biên Hòa làm hướng chuẩn để mô tả hiện trường; lấy mép lề phải đường làm chuẩn để đo vẽ hiện trường, lấy điểm nhô ra cao nhất của cột biển báo số 1837 nằm trong lề phải đường làm điểm chuẩn, hiện trường được xác định như sau:

+ Vết cày dài 62m70; tâm đầu vết cày đo vào lề phải đường là 02m40, cuối vết cày nằm tại điểm tiếp giáp giữa đầu gác chân trước bên phải xe mô tô biển số 70K1-063.74 với mặt đường.

+ Xe ô tô biển số 60B-026.83, sau tai nạn dừng lại trên đường, đầu xe quay về hướng Biên Hòa, đuôi xe quay về hướng Dầu Giây, tâm trục bánh trước bên phải đo đến lề phải đường là 01m10 và đo đến trục bánh trước xe mô tô biển số 70K1-063.74 là 02m30; tâm trục bánh sau bên phải đo đến lề phải đường là 01m10.

+ Xe mô tô biển số 70K1-063.74 sau tai nạn nằm ngã về bên phải, đầu xe quay chếch về hướng tim đường, đuôi xe quay chếch về lề phải, tâm trục bánh sau đo đến lề phải đường là 01m80; tâm trục bánh trước đo đến lề phải đường là 03m20.

+ Từ điểm chuẩn đo đến trục bánh trước bên phải xe ô tô biển số 60B- 026.83 là 12m và đo đến tâm trục bánh sau bên phải xe ô tô biển số 60B-026.83 là 07m50.

Căn cứ kết luận giám định pháp y về tử thi số 761/PC 54-KLGĐPY ngày 07/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Anh Huỳnh Phú T chết:

1/ Dấu hiệu chính:

Xây sát rách da vùng bụng, bẹn và đùi; Dịch trong khoang màng bụng, tụ máu phúc mạc, khâu đại tràng, khâu bàng quang, gãy khung chậu, gãy xương đùi.

Nguyên nhân tử vong: Chấn thương bụng – hố chậu dập đại tràng, vỡ bàng quang, gãy khung chậu, xương đùi hậu phẩu không phục hồi.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thành T đã khai nhận hành vi của bị cáo như nội dung bản cáo trạng đã viện dẫn.

Về vật chứng của vụ án: Xe ô tô biển số 60B-026.83; xe mô tô 70K1-063.74 có giấy tờ hợp pháp nên cơ quan điều tra Công an huyện Thống Nhất đã trả lại cho chủ sở hữu. 01 giấy phép lái xe giả tên Nguyễn Anh K được dán hình Nguyễn Thành T đang lưu giữ tại hồ sơ.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Nguyễn Thành T và bị đơn dân sự ông Đào Văn H đã bồi thường chi phí điều trị, chi phí mai táng và tổn thất tinh thần số tiền 350.000.000đ (ba trăm năm mươi triệu đồng) và được gia đình bị hại bãi nại và xin giảm nhẹ hình phạt.

Bị cáo Nguyễn Thành T và bị đơn dân sự ông Đào Văn H đã bồi thường cho bị hai anh Võ Đan H số tiền 5.000.000đ (năm triệu đồng) được anh H bãi nại và xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại bản cáo trạng số 41/CT.VKS-TN, ngày 08/6/2019; Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất truy tố bị cáo Nguyễn Thành T về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 1 và điểm a khoản 2 Điều 260 của Bộ Luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Áp dụng điểm b, s, khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Thành T; từ 05 (năm) năm đến 05 năm 06 (sáu) tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự không đặt ra xem xét.

Về biện pháp tư pháp: 01 giấy phép lái xe số sơ ri 790145111119 tên Nguyễn Anh K, được sở giao thông vận tải thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 26/8/2016; có dán hình bị cáo Nguyễn Thành T là giấy tờ giả nên lưu giữ vào hồ sơ vụ án để xử lý theo quy định của pháp luật.

Về việc truy tố của Viện kiểm sát: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo xác định việc truy tố của Viện kiểm sát là đúng pháp luật; người đại diện hợp pháp của bị hai; bị hại; người có quyền lợi nghĩa vụ liên đến vụ án trong quá trình điều tra không có ý kiến gì.

Lời nói sau cùng bị cáo trình bày: Rất hối hận về hành vi của mình đã gây ra, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về với gia đình đi làm nuôi con nhỏ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thống Nhất, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thành Tài khai nhận hành vi đã thực hiện phù hợp với quá trình điều tra, phù hợp với hành vi bị truy tố tại cáo trạng.

Lời khai của bị cáo Tài phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường; sơ đồ hiện trường; biên bản khám nghiệm phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông; bản ảnh chụp tai nạn tại hiện trường. Kết luận giám định pháp y về tử thi và các tài liệu khác được thu thập có tại hồ sơ vụ án đủ cơ sở xác định: Vào sáng ngày 06/12/2018 tại km1837+100, Quốc lộ 1A thuộc ấp N, xã L, huyện N, tỉnh Đồng Nai, bị cáo Nguyễn Thành T (không có giấy phép lái xe theo quy định), điều khiển xe ô tô biển số 60B-026.83 chở công nhân lưu thông trên Quốc lộ 1A theo hướng G về huyện B, khi đến km1837+100, Quốc lộ 1A thuộc ấp N, xã L, Tài quan sát thấy phía trước cùng chiều có 01 xe ô tô loại 16 chỗ ngồi đang lưu thông với tốc độ chậm nên T đã bật tín hiệu bên phải và điều khiển xe ô tô đi vào làn đường hỗn hợp phía bên phải và tăng tốc độ xe ô tô biển số 60B-026.83 để vượt xe ô tô 16 chỗ. Do thiếu quan sát phía trước khi ô tô biển số 60B-026.83 do bị cáo T điều khiển chạy song song với xe ô tô 16 chỗ thì phát hiện phía trước cùng chiều có xe mô tô 70K1-063.74 do anh Huỳnh Phú Th điều khiển chở phía sau anh Võ Đan H, ở khoảng cách gần và vượt bên phải xe sai quy định, bị cáo T xử lý không kịp, cản phía trước đầu xe ô tô do bị cáo T điều khiển va đụng vào phía sau xe mô tô do anh T điều khiển và đẩy xe mô tô 70 K1-063.74 đi một đoạn dài 62m70, anh T và anh H té ngã xuống đường rồi dừng lại trên đoạn đường hỗn hợp. Anh Huỳnh Phú T bị thương nặng chết vào ngày 08/12/2018 tại bệnh viện Bình Dân, anh H bị thương nhẹ.

Hành vi của bị cáo đã vi phạm vào khoản 9 Điều 8; các khoản 2, 4 Điều 14 Luật giao thông đường bộ và gây hậu quả nghiêm trọng làm cho anh T chết đã phạm vào tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Việc bị cáo điều khiển xe không có giấy phép lái xe theo quy định đây là tình tiết định khung theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 của Bộ Luật hình sự. Việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất đối với bị cáo Tài là có căn cứ, đúng pháp luật. Đối với hành vi sử dụng giấy phép lái xe giả của bị cáo T cơ quan điều tra Công an huyện Thống Nhất đã xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự an toàn công cộng, gây thiệt hại về tính mạng và tài sản của công dân, nguyên nhân chính gây ra vụ tại nạn là do lỗi hoàn toàn của bị cáo nên cần có mức hình phạt tương xứng với hành vi và hậu quả bị cáo đã gây ra nhằm để cải tạo giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo nhận thấy: bị cáo không phạm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã bồi thường thiệt hại, được người đại diện hợp pháp của bị hại làm đơn bãi nại và xin giảm nhẹ hình phạt, đã ra đầu thú. Do đó, cần cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[5] Về vật chứng: Xe ô tô biển số 60B-026.83; xe mô tô 70K1-063.74 có giấy tờ hợp pháp nên cơ quan điều tra Công an huyện Thống Nhất đã trả lại cho chủ sở hữu.

Riêng 01 giấy phép lái xe số sơ ri 790145111119 tên Nguyễn Anh K, được sở giao thông vận tải thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 26/8/2016; có dán hình bị cáo Nguyễn Thành T là giấy tờ giả nên lưu giữ vào hồ sơ vụ án để xử lý theo quy định của pháp luật.

[6] Về trách nhiệm dân sự, tại giai đoạn điều tra bị cáo cùng chủ xe ông H đã bồi thường cho người đại diện hợp pháp của bị hại các khoản tiền gồm chi phí điều trị, chi phí mai táng, và tổn thất tinh thần với số tiền 350.000.000đ người đại diện hợp pháp của bị hại không có yêu cầu bồi thường khoản tiền nào khác nên không đặt ra xem xét.

Bị hại anh Võ Đan H được bồi thường thiệt hại số tiền 5.000.000đ; tại giai đoạn điều tra bị hại không có yêu cầu bồi thường khoản tiền nào khác nên không đặt ra xem xét.

[7] Về án phí, bị cáo T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Nguyễn Thành T phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

- Căn cứ vào điểm a khoản 1 và điểm a khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sữa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Nguyễn Thành T 04 (bốn) năm tù giam, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

2. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14. Buộc Nguyễn Thành T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại; người đại diện hợp pháp của bị hại; bị đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày Bản án được cấp, tống đạt hoặc niêm yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 43/2019/HS-ST ngày 26/07/2019 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:43/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thống Nhất - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;