Bản án 43/2019/HNGĐ-ST ngày 16/09/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỘC NINH – TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 43/2019/HNGĐ-ST NGÀY 16/09/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 16 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 319/2019/TLST – HNGĐ ngày 14 tháng 6 năm 2019 về tranh chấp “ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2019/QĐXXST - HNGĐ ngày 12 tháng 8 năm 2019 và quyết định hoãn phiên tòa số 14/2019/QĐST-HNGĐ ngày 29 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Tạ Thị S, sinh năm: 1986 (vắng mặt) HKTT: Tổ 6, ấp 54, xã L, huyện L, tỉnh Bình Phước Tạm trú: số 33, đường N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk

2. Bị đơn: Ông Trần Văn T, sinh năm: 1987 (vắng mặt ) Địa chỉ: Tổ 6, ấp 54, xã L, huyện L, tỉnh Bình Phước

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 13 tháng 6 năm 2019 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Tạ Thị S trình bày:

- Về hôn nhân: Bà S tự nguyện sống chung với ông Trần Văn T và có đăng ký kết hôn tại UBND xã L, huyện L vào năm 2012. Trước khi kết hôn hai bên có tìm hiểu nhau trong thời gian khoảng 01 năm. Sau khi kết hôn vợ chồng sống tự lập xã L, huyện L, tỉnh Bình Phước. Vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống và đã ly thân từ tháng 5/2018 cho đến nay. Nay bà S xin ly hôn với ông T.

- Về con chung: Có 01 con chung tên Trần Tạ Thiên T, sinh ngày 01/01/2013. Hiện đang sống chung với bà S từ khi vợ chồng ly thân cho đến nay.

Khi ly hôn, bà S xin được nuôi dưỡng con. Không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con. Hiện bà S không có mang thai, vợ chồng không có con nuôi.

- Veà taøi saûn chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ: Bà S và ông T không nợ ai cũng không ai nợ lại. (Bà S vắng mặt tại phiên tòa có đơn xin xét xử vắng mặt) Đối với bị đơn ông Trần Văn T vắng mặt không có lý do.

Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng không có mặt làm việc. Căn cứ biên bản xác minh ngày 02/7/2019 của Tòa án xác minh tại Công an xã L xác định: ông Trần Văn T có đăng ký hộ khẩu tại Tổ 6, ấp 54, xã L, huyện L, tỉnh Bình Phước và hiện nay vẫn đang ở địa phương.

Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án cho ông T theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên bị đơn không có văn bản trình bày ý kiến, không giao nộp tài liệu chứng cứ và không có mặt theo các thông báo, quyết định của Tòa án.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Ninh phát biểu ý kiến:

- Việc chấp hành pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với bị đơn không chấp hành pháp luật, Tòa án đã tiến hành niêm yết theo luật định. Việc xác định quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết, thực hiện thủ tục cấp tống đạt các văn bản tố tụng, thu thập chứng cứ, mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát, thành phần tham gia xét xử được thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Viện Kiểm sát nhân dân huyện Lộc Ninh không có kiến nghị gì về tố tụng.

- Veà noäi dung: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội Đồng xét xử chaáp nhaän yeâu caàu khởi kiện của nguyên đơn bà Tạ Thị S + Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Tạ Thị S và ông Trần Văn T.

+ Về con chung: Giao con tên Trần Tạ Thiên T, sinh ngày: 01/01/2013 cho bà S nuôi dưỡng. Bà S không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

+ Veà taøi saûn chung: Bà S và ông T tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

+ Về nợ chung: Không có nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa và ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về pháp luật tố tụng: Bà Tạ Thị S có đơn khởi kiện yêu cầu được ly hôn và giải quyết về nuôi con chung với ông Trần Văn T. Xét ông T cư trú tại xã L, huyện L, tỉnh Bình Phước nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

Nguyên đơn bà S vắng mặt tại phiên tòa đã có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn là ông T vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do. Do đó, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt các đương sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà S và ông T tự nguyện chung sống, có đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 62 ngày 10/3/2012 của Ủy ban nhân dân xã L, huyện L, tỉnh Bình Phước nên có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa bà S và ông T là hợp pháp.

[3] Đi với yêu cầu xin ly hôn của bà S, Hội đồng xét xử xét thấy: Theo đơn khởi kiện và lời khai của bà S trong quá trình giải quyết vụ án thì giữa bà S và ông T phát sinh mâu thuẫn từ năm 2018. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc và đã sống ly thân từ tháng 5/2018 cho đến nay. Đối với ông T, tại phiên Tòa ông T vắng mặt, trong quá trình giải quyết Tòa án đã triệu tập nhiều lần nhưng ông T không đến làm việc cũng như tham gia hòa giải để đưa ra ý kiến và biện pháp hàn gắn mâu thuẫn vợ chồng. Theo lời khai của ông Trần Văn N – là cha của ông T thì trong quá trình chung sống giữa ông T và bà S hay mâu thuẫn, cãi nhau và đã sống ly thân từ tháng 5/2018 cho đến nay. Đồng thời, theo biên bản xác minh ngày 02/7/2019 của Tòa án xác minh tại Ủy ban nhân dân xã L cũng xác định hiện ông T, bà S không còn sống chung với nhau. Như vậy, có căn cứ để xác định tình trạng hôn nhân giữa bà S và ông T đã trầm trọng, không có khả năng hàn gắn, cuộc sống chung không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà S.

[4] Về con chung: Bà S và ông T có 01 con chung tên Trần Tạ Thiên T, sinh ngày 01/01/2013. Khi ly hôn, bà S xin được nuôi con, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, quá trình giải quyết vụ án, ông T không có văn bản ý kiến gì về việc nuôi con. Cháu T hiện đang sống chung với bà S từ khi bà và ông T ly thân cho đến nay nên giao cho bà S tiếp tục nuôi dưỡng con là phù hợp.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Bà S không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

[6] Về tài sản chung: Bà S không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về nợ chung: Bà S khai không có nên không xem xét.

[8] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát phù hợp nhận định của Tòa án nên chấp nhận.

[9] Về án phí: Căn cứ khoản 4 điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì bà S phải chịu số tiền án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ.

Vì các lẽ trên:

Căn cứ vào:

QUYẾT ĐỊNH

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35,điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điều 39 Bộ luật dân sự;

- Khoản 1 Điều 51, Khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 85 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Tạ Thị S.

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Tạ Thị S và ông Trần Văn T.

2. Về con chung: Giao con tên Trần Tạ Thiên T, sinh ngày 01/01/2013 cho bà S nuôi dưỡng.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì quyền lợi của con, khi có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên theo luật định.

3. Về tài sản chung: Bà S không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét 4. Về nợ chung: Không có nên không xem xét.

5. Về án phí: Bà S chịu 300.000đ án phí Hôn nhân sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Lộc Ninh theo biên lai thu tiền số 0000285 ngày 14/6/2019.

6. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng có bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 43/2019/HNGĐ-ST ngày 16/09/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:43/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lộc Ninh - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;