TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 43/2019/HNGĐ-ST NGÀY 16/08/2019 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ Y VÀ ANH PH
Ngày 16-8-2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện H, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 156/2019/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 6 năm 2019 về “Ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 47/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 7 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 20/2019/HNGĐ-QĐ ngày 30 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Trương Thị Y, sinh năm 1994 (có mặt). Địa chỉ: Thôn T, xã H, huyện H, tỉnh Thái Bình.
Bị đơn: Anh Vũ Văn Ph, sinh năm 1990 (vắng mặt). Địa chỉ: Thôn C, xã H, huyện H, tỉnh Thái Bình.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và trong quá trình xét xử, chị Trương Thị Y trình bày: Chị kết hôn với anh Vũ Văn Ph trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại trụ sở UBND xã H vào ngày 10-12-2013. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hòa thuận được 03 tháng thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng tính tình không hợp, vợ chồng không bảo ban được nhau trong cuộc sống làm ăn, anh Ph không quan tâm đến vợ, con. Mâu thuẫn vợ chồng căng thẳng và sống ly thân từ tháng 10 năm 2014 đến nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh Ph không còn, chị đề nghị Toà án nhân dân (TAND) huyện H giải quyết cho chị được ly hôn anh Ph. Về con chung: Chị và anh Ph có 01 con chung là Vũ Nhật A, sinh ngày 02/9/2014, vợ chồng sống ly thân chị là người trực tiếp nuôi dưỡng con. Khi ly hôn chị xin được trực tiếp nuôi con, chị xin nuôi con hoàn toàn, không yêu cầu anh Ph góp cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung: Không có Tại phiên tòa, trước khi Hội đồng xét xử nghị án, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tiến hành thụ lý, thu thập chứng cứ và xét xử vụ án theo đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục tố tụng mà pháp luật quy định, người tham gia tố tụng đã chấp hành cơ bản đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Về giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử xử cho ly hôn giữa chị Y và anh Ph; về nuôi con chung: Giao con chung cho chị Y trực tiếp nuôi dưỡng, anh Ph không phải góp cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung, nợ chung: Chưa giải quyết; về án phí: Chị Y phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng. Tòa án nhân dân huyện H nhận định:
[2] Về thủ tục tố tụng: Chị Trương Thị Y khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Vũ Văn Ph, căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND huyện H, tỉnh Thái Bình.
[3] Căn cứ vào biên bản lấy lời khai các ngày 11-6-2019 và ngày 05-7- 2019, ông Nguyễn Xuân Th (là ông ngoại của anh Ph), sinh năm 1947, trú tại Thôn C, xã H, huyện H, tỉnh Thái Bình trình bày: Bố mẹ anh Ph ly hôn khi mẹ anh Ph đang mang thai anh Ph, 02 mẹ con sống ở gia đình ông cho đến khi anh Ph xây dựng gia đình với chị Y. Anh Ph kết hôn với chị Y do đôi bên tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại trụ sở UBND xã H vào ngày 10-12-2013. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hòa thuận được 06 tháng thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng tính tình không hợp, hay cãi cọ nhau. Chị Y bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở, anh Ph đi vào nam làm ăn, đến khi chị Y sinh con thì anh Ph có về thăm. Sau đó hai vợ chồng sống ly thân từ tháng 10 năm 2014 đến nay. Nay chị Y xin ly hôn anh Ph gia đình không mong muốn, nhưng do anh Ph và chị Y sống ly thân quá lâu nên đề nghị Toà án giải quyết cho anh Ph và chị Y được ly hôn. Về con chung: Anh Ph và chị Y có 01 con chung là Vũ Nhật A, sinh ngày 02-9-2014, hiện nay đang do chị Y trực tiếp nuôi dưỡng. Nếu ly hôn đề nghị Tòa án giao con cho chị Y trực tiếp nuôi dưỡng. Về tài sản chung và nợ chung: Không có. Hiện nay anh Ph đang làm nghề tự do ở tỉnh Đồng Nai, không có nơi ở cố định, ông và anh Ph vẫn thường xuyên liên lạc qua điện thoại, ông đã thông báo về việc thụ lý vụ án và thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải cho anh Ph biết nhưng anh Ph không về Toà án nhân dân huyện H, tỉnh Thái Bình để giải quyết vụ án được, anh Ph đề nghị Toà án giải quyết vắng mặt anh theo quy định của pháp luật.
[4] Như vậy, anh Ph đã biết TAND huyện H đang thụ lý giải quyết vụ án ly hôn giữa anh và chị Y theo đơn khởi kiện của chị Y, nhưng anh không đến Tòa án để giải quyết vụ án, vì vậy, TAND huyện H mở phiên tòa xét xử vắng mặt anh Ph theo quy định tại điểm b khoản 2, Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[5] Về hôn nhân: Chị Y kết hôn với anh Ph là tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại trụ sở UBND xã H vào ngày 10-12-2013, đây là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hòa thuận được 6 tháng thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu là do vợ chồng tình tính không hợp, thường xuyên cãi cọ nhau. Mâu thuẫn vợ chồng căng thẳng, sống ly thân từ tháng 10 năm 2014 đến nay. Hội đồng xét xử thấy, chị Y và anh Ph mâu thuẫn ttrầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Chị Y khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn anh Ph, là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, cần chấp nhận.
[5] Về nuôi con chung: Chị Yến và anh Ph có 01 con chung là Vũ Nhật A, sinh ngày 02-9-2014, hiện nay đang do chị Y trực tiếp nuôi dưỡng. Giao con chung cho chị Y trực tiếp nuôi dưỡng, chấp nhận việc chị Y xin nuôi con hoàn toàn, không yêu cầu anh Ph cấp dưỡng nuôi con, anh Ph có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung là phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình
[6] Về tài sản, nợ chung: Mặc dù chị Y và ông Th đều trình bày chị Y và anh Ph không có tài sản gì chung, không vay nợ ai nhưng do chưa có ý kiến trực tiếp của anh Ph nên Tòa án không xem xét giải quyết. Các bên có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản (nếu có) bằng vụ kiện dân sự khác.
[7] Về án phí: Chị Y phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Từ các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 147, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 của UBTVQH về án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Trương Thị Y và anh Vũ Văn Ph.
2. Về nuôi con chung: Giao con chung là Vũ Nhật A, sinh ngày 02-9-2014 cho chị Y trực tiếp nuôi dưỡng, anh Ph không phải cấp dưỡng nuôi con, anh Ph có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về chia tài sản: Chưa giải quyết.
4. Về án phí: Chị Y phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị Y đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0005614 ngày 06-6-2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Thái Bình, chị Y đã nộp đủ tiền án phí.Chị Y có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Ph vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 43/2019/HNGĐ-ST ngày 16/08/2019 về ly hôn giữa chị Y và anh Ph
Số hiệu: | 43/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hưng Hà - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 16/08/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về