Bản án 43/2018/HS-ST ngày 19/10/2018 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 43/2018/HS-ST NGÀY 19/10/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 19 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 42/2018/TLST-HS ngày 23 tháng 8 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2018/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 8 năm 2018, đối với bị cáo: 

Liao C, tên gọi khác: Liêu K, sinh năm 1954, tại Đài Loan, Trung Quốc; nơi cư trú: Đường C1, thành phố C2, lãnh thổ Đài Loan, Trung Quốc; tạm trú: Ấp K1, xã K2, huyện K3, tỉnh Tây Ninh, Việt Nam; nghề nghiệp: Kinh doanh; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Hoa; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Trung Quốc; con ông Liao B (đã chết) và bà Lai X (đã chết); vợ thứ nhất tên Gao Li Q, sinh năm 1959 (đã ly hôn), vợ thứ hai tên Nguyễn Thị V, sinh năm 1968 (đã ly hôn); có 04 người con, lớn nhất sinh năm 1978, nhỏ nhất sinh năm 1995; tiền án, tiền sự: Theo Văn phòng Kinh tế và Văn hóa Đài Bắc tại Thành phố Hồ Chí Minh trả lời tại Công hàm số 10712820880 như sau: Năm 1988 phạm tội đánh người bị phạt 5 tháng tù nhưng được đóng phạt để bảo lãnh tại ngoại; nhân thân: xấu; bị bắt tạm giam từ ngày 16-4-2018 cho đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Phạm Văn T, Luật sư – Công ty luật Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Bảo Minh Lý thuộc Đoàn luật sư tỉnh Tây Ninh; có mặt.

- Bị hại:

+ Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1953; cư trú tại: Ấp N1, xã N2, huyện N3, tỉnh Tây Ninh; có mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà N: Ông Nguyễn Văn R, Luật sư của Văn phòng Luật sư Nguyễn Văn R , thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Tây Ninh; có mặt.

+ Chị Nguyễn H, sinh ngày 22-12-2000; cư trú tại: Ấp K1, xã K2, huyện K3, tỉnh Tây Ninh; có mặt.

- Người đại diện hợp pháp của bị hại Nguyễn H: Bà Bùi Thị D, sinh năm 1970; cư trú tại: Ấp K1, xã K2, huyện K3, tỉnh Tây Ninh; có mặt.

+ Bà Bùi Thị M, tên gọi khác: Pei Ching Hsin, sinh năm 1978; cư trú tại: Ấp K1, xã K2, huyện K3, tỉnh Tây Ninh; có mặt.

+ Ông Nguyễn K, sinh năm 1977; cư trú tại: Ấp K1, xã K2, huyện K3, tỉnh Tây Ninh; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

+ Anh Liêu Minh Đ, sinh năm 1995; cư trú tại: Đường Đ1, Phường Đ2, quận Đ3, Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.

+ Chị Lê Thị Y, sinh năm 1982; cư trú tại: Đường số Y1, khu phố Y2, thị trấn Y3i, huyện Y4, Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.

- Người phiên dịch: Bà Nguyễn E – Cộng tác viên, Phòng Tư pháp thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào cuối năm 2015, Liao C sinh năm 1954, quốc tịch: Trung Quốc, chung sống như vợ chồng với Bùi Thị M (Pei Ching Hsin) sinh năm 1978, quốc tịch: Trung Quốc. Quá trình chung sống, Liao C và Bùi Thị M có mua đất, xây nhà và lập vườn hoa lan tại ấp K1, xã K2, huyện K3, tỉnh Tây Ninh đồng thời thống nhất để chị ruột của Bùi Thị M tên Bùi Thị D và con ruột của Liao C tên Liêu Minh Đ đứng tên trên giấy chứng nhận. Đầu năm 2018, Liao C và Bùi Thị M phát sinh mâu thuẫn tình cảm, dẫn đến tranh chấp về tài sản. Liao C ra ngoài thuê nhà trọ để sống.

Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 27-3-2018, Liao C chuẩn bị 01 cây kềm bằng kim loại và 01 lít xăng, điều khiển xe mô-tô biển số 59Y2-408.66 từ khu vực nhà trọ Liao C đang thuê thuộc thị trấn K4, huyện K3, tỉnh Tây Ninh đến nhà chị Tâm tại ấp K1, xã K2, huyện K3, tỉnh Tây Ninh để tìm Bùi Thị M. Khi đến nơi, thấy cổng trước khóa, Liao C điều khiển xe để cách nhà khoảng 100 m rồi cầm kềm, xăng đi bộ đến hàng rào phía vườn hoa lan, dùng kềm cắt hàng rào kẽm B40 vào bên trong; Liao C đi đến cửa chính thấy 01 con dao bằng kim loại dài khoảng 20 cm đề sẵn trên bàn Inox thì cầm lấy dao. Liao C kéo cửa, trong nhà chỉ có mẹ ruột của chị Tâm là bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1953 và con của Bùi Thị D là Nguyễn H, sinh năm 2000; do bà N không mở cửa, nên Liao C tạt xăng vào cửa chính, đổ xăng lên xe mô-tô biển số 70L1-263-99 do bà Nguyễn Thị N làm chủ sở hữu, châm lửa đốt làm cháy toàn bộ xe mô-tô, biển số 70L1-263-99, hai màn cửa bằng vải gấm có cùng kích thước 3,20 m x l,50 m của Bùi Thị M và ốp nhựa tại vị trí phía dưới chống ngang xe mô-tô, hiệu Vision, biển số 70L1- 503.82 do ông Nguyễn K làm chủ sở hữu. Do lửa cháy lớn và lan rộng nên bà N và Nguyễn H mở cửa sau để thoát ra ngoài. Bà N vừa mở cửa, Liao C cầm dao bằng tay trái xông vào đâm nhiều nhát vào người bà N, bà N té xuống nền nhà; Nguyễn H tiến đến nắm tay Liao C nhằm tước dao thì bị Liao C dùng kềm đánh vào đầu gây thương tích; Nguyễn H dùng cây lau nhà đánh nhiều cái vào người Liao C rồi bỏ chạy ra bên ngoài; Liao C chạy ra lấy xe mô-tô rời khỏi hiện trường. Bà Nguyễn Thị N và Nguyễn H được người thân đưa đi cấp cứu.

Kết luận định giá tài sản số: 631CLĐG ngày 22-4-2018 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Trảng Bàng, kết luận: Xe mô-tô biển số 70L1-263-99, trị giá 9.900.000 đồng; ốp nhựa tại vị trí phía dưới chống ngang của xe Vision, trị giá 115.000 đồng; 02 tấm màn cửa bằng vài gấm, trị giá 1.800.000 đồng. Tổng giá trị tài sản thiệt hại là 11.815.000 đồng.

Kết luận giám định Pháp y về thương tích số: 100/2018/TgT ngày 28-5-2018 của Trung tâm Pháp y thuộc Sở Y tế tỉnh Tây Ninh, kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể của Nguyễn H là 02%.

Kết luận giám định Pháp y về thương tích số: 101/2018/TgT ngày 28-5-2018 của Trung tâm Pháp y thuộc Sở Y tế tỉnh Tây Ninh, kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể của Nguyễn Thi N là 75%, gồm các vết thương chính: “Vết thương thủng cơ hoành, thủng dạ dày, thủng gan, tràn máu màng phổi trái”.

Kết luận giám định Pháp y về thương tích số: 103/2018/TgT ngày 12-6-2018 của Trung tâm Pháp y thuộc Sở Y tế tỉnh Tây Ninh, kết luận: “Tỷ lệ tổn thương cơ thể của Liao C là 9%”.

Tại bản Cáo trạng số: 23/CT-VKS-P2, ngày 20 tháng 8 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh đã truy tố bị cáo Liao C về các tội “Cố ý gây thương tích” và “Hủy hoại tài sản; theo điểm d khoản 4 Điều 134 và điểm d khoản 2 Điều 178 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã truy tố.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh đề nghị: Căn cứ vào điểm d khoản 4 Điều 134; điểm d khoản 2 Điều 178; điểm b, s khoản 1 Điều 51; 38; 55 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Liao C từ 09-10 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” và từ 02-03 năm tù về tội “Hủy hoại tài sản”; tổng hợp hình phạt cho cả hai tội là từ 11-13 năm tù; buộc bị cáo bồi thường toàn bộ thiệt hại cho các bị hại; xử lý vật chứng theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, người bào chữa cho bị cáo trình bày: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ tội trạng, do đó Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh truy tố bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” và “Hủy hoại tài sản” theo điểm d khoản 4 Điều 134; điểm d khoản 2 Điều 178 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội. Tuy nhiên, về nguyên nhân dẫn đến bị cáo phạm tội là do gia đình bị hại xử sự không tốt với bị cáo (đuổi bị cáo ra khỏi nhà) nên làm bị cáo kích động dẫn đến gây án; bị cáo không mang dao theo người. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ như: Bị hại có một phần lỗi; bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có tác động gia đình nộp 65 triệu đồng tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh để khắc phục một phần hậu quả; chưa có tiền án, tiền sự. Đề nghị áp dụng điểm b, e, s khoản 1 Điều 51; 54 của Bộ luật Hình sự để xử cho bị cáo mức án dưới mức đề xuất của Kiểm sát viên. Về bồi thường thiệt hại: Đề nghị cân nhắc theo quy định của pháp luật để buộc bị cáo bồi thường những thiệt hại hợp lý.

Tại phiên tòa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại Nhường trình bày: Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh truy tố bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” là không đúng tội, vì hành vi của bị cáo mang dấu hiệu của tội “Giết người”, bởi lẽ bị cáo dùng xăng đốt nhà trong khi trong nhà có bà N và cháu Âu đang ở trong đó; khi bà N thoát ra bị cáo dùng dao đâm bà N nhiều cái vào vùng nguy hiểm trên cơ thể bà N; việc bà N không chết là ngoài ý muốn của bị cáo; do đó đề nghị xét xử cho đúng tội danh đồng thời buộc bị cáo bồi thường những thiệt hại cho bà N theo đúng quy định của pháp luật.

Bị cáo không tham gia tranh luận.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo không trình bày.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Tây Ninh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Liao C không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Liao C đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh đã truy tố. Xét lời nhận tội của bị cáo Liao C phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, có cơ sở xác định:

2.1. Do có mâu thuẫn với bà Bùi Thị M (người sống chung như vợ chồng với Liao C); khoảng 00 giờ 30 phút ngày 27-3-2018, Liao C chuẩn bị 01 cây kềm bằng kim loại và 01 lít xăng, điều khiển xe mô-tô, biển số 59Y2-408.66 từ khu vực nhà trọ (Liao C đang thuê) đến nhà tại ấp K1, xã K2, huyện K3, tỉnh Tây Ninh để tìm bà Bùi Thị M. Khi đến nhà, thấy cổng trước khóa, Liao C cắt hàng rào kẽm B40 vào bên trong; tạt xăng vào cửa chính, đổ xăng lên xe mô-tô, biển số 70L1-263-99, châm lửa đốt làm cháy toàn bộ xe mô-tô, biển số 70L1-263-99, hai màn cửa có cùng kích thước 3,20 m x 1,50 m và ốp nhựa tại vị trí phía dưới chống ngang xe mô-tô, hiệu Vision, biển số 70L1- 503.82; khi thấy bà N chạy ra, Liao C cầm dao đâm nhiều nhát vào người bà N gây thương tích 75% và dùng kềm đánh vào đầu Nguyễn H gây thương tích 02%.

2.2. Như vậy, có đủ cơ sở xác định bị cáo Liao C phạm tội “Cố ý gây thương tích” và “Hủy hoại tài sản” theo điểm d khoản 4 Điều 134 và điểm d khoản 2 Điều 178 của Bộ luật Hình sự.

2.3. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại N cho rằng bị cáo phạm tội “Giết người” là không có cơ sở; bởi lẽ, giữa bị cáo và bà N không có mâu thuẫn từ trước; khi đi bị cáo không mang theo dao mà lấy tại nơi gây án; bị cáo tuy có dùng dao đâm bà N nhiều cái nhưng hành vi này là cố ý không xác định; hậu quả bà N chỉ bị thương tích nên Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh đã truy tố bị cáo về tội “Cố ý gây thường tích” là đúng tội.

[3] Vụ án mang tính chất rất nghiêm trọng. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự để nhận thức được mức độ nguy hiểm của hành vi do mình gây ra nhưng chỉ vì mâu thuẫn tình cảm và tranh chấp tài sản với bà Bùi Thị M, bị cáo đã dùng xăng đốt cháy toàn bộ xe mô-tô, biển số 70L1-263-99, hai màn cửa có cùng kích thước 3,20 m x 1,50 m và ốp nhựa tại vị trí phía dưới chống ngang xe mô-tô, hiệu Vision, biển số 70L1- 503.82, gây thiệt hại tổng cộng là 11.815.000 đồng. Song song đó, bị cáo dùng dao đâm bà Nguyễn Thị N gây thương tích 75% và dùng kềm đánh vào đầu Nguyễn H gây thương tích 02%. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe và tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an cho xã hội nên cần nghiêm trị.

[4] Khi quyết định hình phạt có xem xét: Nguyên nhân dẫn đến bị cáo phạm tội là từ thái độ cư xử của bà Tâm không tốt đối với bị cáo (đuổi bị cáo ra khỏi nhà, bị cáo phải đi thuê nhà trọ sống), trong khi thời gian trước đó bị cáo có hùn tiền cùng với bà Tâm để mua đất, cất nhà, trồng hoa lan; sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có tác động gia đình nộp 65.000.000 đồng tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Tây Ninh để khắc phục một phần hậu quả; tại phiên tòa các bị hại: Bà M, cháu H, ông K đều xin giảm nhẹ cho bị cáo; bị cáo là người nước ngoài, tuổi cao (64 tuổi), sức khỏe kém; đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và bị cáo không có tình tiết tăng nặng (nhưng có nhân thân xấu). Do bị cáo có hai tình tiết quy định tại Điều 51 của Bộ luật Hình sự nên cần áp dụng thêm khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự để cho bị cáo được hưởng mức án dưới khung hình phạt của tội “Hủy hoại tài sản”.

[5] Các biện pháp tư pháp: Căn cứ vào khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 584, 585, 589, 590 của Bộ luật Dân sự.

5.1. Tại phiên tòa, bị hại Nguyễn Thị N yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 344.489.939 đồng, cụ thể gồm: Về tiền thuốc và viện phí 50.489.939 đồng; tiền xe 1.500.000 đồng; tiền mất thu nhập của người bệnh 4.200.000 đồng/21 ngày (200.000 đồng/ngày); tiền bồi thường tổn thất về tinh thần 69.500.000 đồng; 200.000.000 đồng tiền mất thu nhập về sau; 6.300.000 đồng (tiền mất thu nhập của người nuôi bệnh: 21 ngày x 300.000 đồng/ngày); 12.500.000 đồng xe bị cháy; xét các khoản này là phù hợp, có cơ sở chấp nhận.

5.2. Bị hại Nguyễn H và người đại diện hợp pháp của bị hại H là bà Bùi Thị D yêu cầu bị cáo bồi thường tiền viện phí 2.409.943 đồng và 13.900.000 đồng tiền bồi thường tổn thất về tinh thần, tổng cộng là 16.309.943 đồng; bị hại Nguyễn K yêu cầu bồi thường 115.000 đồng tiền thay thế bộ phận hư hỏng của xe Honda Vision là có căn cứ chấp nhận; do đó, cần buộc bị cáo bồi thường cho các bị hại các khoản thiệt hại này. Ghi nhận bị hại Bùi Thị M không yêu cầu bồi thường hai tấm màn cửa bị cháy.

5.3. Ghi nhận gia đình bị cáo Liao C đã nộp 65.000.000 đồng theo Biên lai thu số 0001249 ngày 18-10-2018 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Tây Ninh.

5.4. Về xử lý vật chứng:

- Đối với xe mô-tô không biển số, bị cháy hoàn toàn, có nhiều vết than hóa và ám khói, số khung: RLHHC12018Y012510, số máy: HC12E-0024381. Theo lời khai của chị Trương Th, ông Lê G (chủ cửa hàng xe máy Bảo Toàn) có cơ sở xác định xe này là của bà Nguyễn Thị N mua hợp pháp nên trả lại cho bà N;

- Đối với xe mô-tô biển số 70L1-503.82, loại xe Vision, nhãn hiệu Honda, màu trắng, số khung: RLHJF5817GY118913, số máy: JF66E0118925 trả lại cho ông Nguyễn K;

- Đối với 01 xe mô-tô biển số 59Y2-408.66, loại xe Wave RSX, nhãn hiệu Honda, màu đỏ đen, số khung: RLHJC522XCY811236, số máy: JC52E5389345 cần trả lại cho bà Lê Thị Y;

- Đối với 01 điện thoại di động, hiệu Samsung, model: SM-G532G/DS, số IMEI 1: 356431/08/039153/2, số IMEI 2: 356432/08/039153/0 trả lại cho Nguyễn H;

- Đối với 01 điện thoại di động, hiệu Nokia, màu đen, Model: RM-1187, số IMEI 1: 357343083623408, số IMEI 2: 357343087623404 thu của bị cáo, cần tiếp tục tạm giữ để bảo đảm cho việc thi hành án;

- Đối với các tài sản khác không có giá trị sử dụng như: dao, thanh kim loại cần tịch thu tiêu hủy, Hội đồng xét xử sẽ tuyên cụ thể ở phần quyết định.

[6] Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần đề nghị của người bào chữa; chấp nhận một phần đề nghị của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại Nhường; chấp nhận một phần đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa.

[7] Về án phí:

Theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; do bị kết án nên bị cáo Liao C phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định, cụ thể: 360.914.882 đồng – 65.000.000 đồng (đã nộp) = 295.914.882 đồng x 5% = 14.795.740 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm d khoản 4 Điều 134; điểm d khoản 2 Điều 178; điểm b, s khoản 1 Điều 51; 38; 55 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Liao C 07 (bảy) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”; áp dụng thêm khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Liao C 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Hủy hoại tài sản”; tổng hợp hình phạt cho cả hai tội là 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam 16-4-2018.

2. Các biện pháp tư pháp: Căn cứ vào khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự; 584, 585, 589, 590 của Bộ luật Dân sự.

3. Buộc bị cáo Liao C có trách nhiệm bồi thường cho các bị hại, cụ thể: Bà Nguyễn Thị N 344.489.939 (ba trăm bốn mươi bốn triệu bốn trăm tám mươi chín nghìn chín trăm ba mươi chín) đồng; Nguyễn H 16.309.943 (mười sáu triệu ba trăm lẻ chín nghìn chín trăm bốn mươi ba) đồng; ông Nguyễn K 115.000 (một trăm mười lăm nghìn) đồng. Ghi nhận bà Bùi Thị M không yêu cầu bồi thường.

4. Ghi nhận gia đình bị cáo Liao C đã nộp 65.000.000 (sáu mươi lăm triệu) đồng theo Biên lai thu số 0001249 ngày 18-10-2018 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Tây Ninh.

5. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

6. Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

6.1. Trả lại cho ông Nguyễn K 01 xe mô-tô, biển số 70L1-503.82 loại xe Vision, nhãn hiệu Honda, màu trắng, số khung: RLHJF5817GY118913, số máy: JF66E0118925;

6.2. Trả lại cho bà Lê Thị Y 01 xe mô-tô biển số 59Y2-408.66, loại xe Wave RSX, nhãn hiệu Honda, màu đỏ đen, số khung: RLHJC522XCY811236, số máy: JC52E5389345;

6.3. Trả lại cho bị hại Nguyễn H 01 điện thoại di động, hiệu Samsung, model: SM-G532G/DS, số IMEI 1: 356431/08/039153/2, số IMEI 2: 356432/08/039153/0;

6.4. Trả lại cho bà Nguyễn Thị N 01 xe mô-tô, không biển số, bị cháy hoàn toàn, có nhiều vết than hóa và ám khói, số khung: RLHHC12018Y012510, số máy: HC12E-0024381;

6.5. Tạm giữ 01 điện thoại di động, hiệu Nokia, màu đen, Model: RM- 1187, số IMEI 1: 357343083623408, số IMEI 2: 357343087623404 của bị cáo Liao C để bảo đảm việc thi hành án;

6.6. Tịch thu, tiêu hủy những vật chứng sau:

- 01 dao bằng kim loại, màu đen, dài 30 cm, cán dao bằng gỗ dài 10 cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 20 cm, bản rộng 5 cm;

- 01 dao bằng kim loại, màu trắng dài 28 cm, cán dao bằng kim loại dài 10 cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 18 cm, bản rộng 7,5 cm;

- 01 thanh kim loại tròn, màu trắng bị gãy gập dài 1,50 m, đường kính 02 cm, hai đầu có bao nhựa màu xanh.

(Hiện Cục Thi hành án dân sự tỉnh Tây Ninh đang giữ theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 11-9-2018)

7. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án: Bị cáo Liao C phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và 14.795.740 (mười bốn triệu bảy trăm chín mươi lăm nghìn bảy trăm bốn mươi) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

8. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

9. Trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, báo cho các bên biết có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 43/2018/HS-ST ngày 19/10/2018 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:43/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;