Bản án 43/2018/HNGĐ-ST ngày 23/07/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH A, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 43/2018/HNGĐ-ST NGÀY 23/07/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 23 tháng 7 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 138/2018/TL.ST-HNGĐ, ngày 23 tháng 5 năm 2018 về việc tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 120/2018/QĐXX-ST ngày 12 tháng 7 năm 2018 giữa các đương sự.

1. Nguyên đơn: Bà Phạm Thị K (có mặt)

Địa chỉ: Ấp A, xã T, huyện C, tỉnh H.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn Đ (vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp A, xã T, huyện C, tỉnh H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 23/5/2018 và quá trình tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn bà Phạm Thị K trình bày: Bà và ông Nguyễn Văn Đ tự nguyện tiến tới hôn nhân, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng hay bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi nhau. Hiện tại vợ chồng không còn sống chung. Bà K xác định không thể tiếp tục duy trì được quan hệ hôn nhân nên yêu cầu ly hôn với ông Đ. Về con chung: Bà và ông Đ có 01 con chung tên Nguyễn Hoàng N (nam), sinh ngày 05/12/2005, cháu N hiện đang sống với bà K. Bà K yêu cầu được nuôi cháu N và không yêu cầu cấp dưỡng. Về tài sản chung: Tại phiên tòa, bà K xác định có tài sản chung là 06 công đất do cha mẹ chồng tặng cho. Về nợ chung: Bà K xác định có nợ 70.000.000đồng do ông Đ vay nhưng không rõ là nợ ngân hàng nào, chỉ nghe chị ruột của ông Đ nói lại. Bà và ông Đ cũng tự thỏa thuận được với nhau về nợ chung và tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình tố tụng tại Tòa án, ông Nguyễn Văn Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt nên chưa ghi nhận được ý kiến.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Xác định việc thụ lý, hòa giải, thu thập chứng cứ cũng như thủ tục tố tụng tại phiên tòa của Thẩm phán, Hội đồng xét xử là đúng quy định của pháp luật, đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Về nội dung giải quyết vụ án: Áp dụng Điều 56, Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Thị K được ly hôn với ông Nguyễn Văn Đ; Về con chung: Giao cháu Nguyễn Hoàng N cho bà Kiều nuôi dưỡng, ông Đ không có nghĩa vụ cấp dưỡng; về tài sản chung và nợ chung: Tách ra giải quyết thành vụ án khác khi các bên phát sinh tranh chấp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Bà Phạm Thị K khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Văn Đ và yêu cầu nuôi con chung nên xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án là ly hôn, thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án theo khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015

[2] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt đối với bị đơn.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Giữa ông Đ và bà K xác lập quan hệ hôn nhân hợp pháp trên cơ sở giấy đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống giữa ông Đ và bà K phát sinh mâu thuẫn. Bà K cho rằng nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng hay bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi nhau. Quá trình tố tụng, Tòa án đã nhiều lần triệu tập ông Đ để hòa giải, hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng ông Đ không đến Tòa án. Từ những chứng cứ nêu trên cho thấy mâu thuẫn giữa ông Đ, bà K là trầm trọng, đời sống hôn nhân không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt nên có căn cứ chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà K.

[4] Về con chung: Xét yêu cầu nuôi con chung của bà K, Hội đồng xét xử xét thấy: Cháu N từ nhỏ đã sống chung với gia đình bà K, sau khi vợ chồng không còn sống chung thì cháu N do bà K trực tiếp nuôi dưỡng, cháu N có nguyện vọng được sống với mẹ và hiện tại chưa ghi nhận được ý kiến của ông Đ về yêu cầu con chung. Nhằm đảm bảo ổn định về tâm lý, chỗ ở và điều kiện chăm sóc, giáo dục cho cháu nên giao cháu N cho bà K nuôi dưỡng. Do bà K không có yêu cầu cấp dưỡng nên ông Đ không phải có nghĩa vụ cấp dưỡng. Ông Đ có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền cản trở.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Bà K có khai về nợ chung và tài sản chung tại phiên tòa nhưng không rõ nợ chung là bao nhiêu và nợ ai. Hơn nữa sau thời điểm Tòa án tiến hành phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa các đương sự không có quyền yêu cầu độc lập và yêu cầu phản tố, các đương sự trong vụ án cũng không có yêu cầu giải quyết nên tách phần nợ chung và tài sản chung giải quyết thành vụ án khác. Nếu sau này có phát sinh tranh chấp các đương sự có quyền khởi kiện thành vụ án khác khi có đủ điều kiện khởi kiện.

[6] Từ những tình tiết, chứng cứ nêu trên, xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên chấp nhận.

[7] Về án phí: Bà K phải chịu án dân sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147; Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội;

 Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Thị K được ly hôn với ông Nguyễn Văn Đ.

Về con chung: Giao cháu Nguyễn Hoàng N (nam), sinh ngày 05/12/2005, cho bà K nuôi dưỡng đến khi thành niên, ông Đ không có nghĩa vụ cấp dưỡng. Ông Đ có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền cản trở.

Về tài sản chung và nợ chung: Tách thành vụ kiện khác, nếu sau này ông Đ bà K có phát sinh tranh chấp đương sự có quyền khởi kiện thành vụ kiện khác khi có đủ điều kiện khởi kiện.

Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Phạm Thị K phải chịu 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng). Chuyển 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí bà K đã nộp theo biên lai số 0014734 ngày 23 tháng 5 năm 2018 của Chi cục Thi hành  án dân sự huyện Châu Thành A thành tiền án phí dân sự sơ thẩm (bà K đã nộpxong).

Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 43/2018/HNGĐ-ST ngày 23/07/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:43/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành A - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;