Bản án 43/2018/HNGĐ-ST ngày 04/09/2018 về tranh chấp ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 43/2018/HNGĐ-ST NGÀY 04/09/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 04/9/2018, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Long Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình sơ thẩm thụ lý số: 160/2018/TLST-HNGĐ ngày 16/3/2018 về việc: Tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 57/2018/QĐST-HNGĐ ngày 03/8/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 49/2018/QĐST-HNGĐ ngày 20/8/2018 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Lê Thị H, sinh năm 1978 (Xin xử vắng mặt)

* Bị đơn: Anh Trần Đức C , sinh năm 1975 (Vắng mặt)

Cùng HKTT: phố Đức Giang, phường Đức Giang, quận Long Biên, Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn xin ly hôn và lời khai tại Tòa án, nguyên đơn - chị Lê Thị H trình bày:

Chị và anh Trần Đức C đăng ký kết hôn ngày 16/7/1996 tại UBND thị trấn Đức Giang, huyện Gia Lâm (nay là phường Đức Giang, quận Long Biên, Hà Nội). Sau khi kết hôn, anh chị chung sống hạnh phúc với nhau đến đầu đầu năm 2008 thì nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do hai vợ chồng không hợp nhau, bất đồng trong quan điểm sống, lối sống. Đến năm 2014 thì mâu thuẫn vợ chồng trở nên trầm trọng do anh C đi trại cai nghiện ma túy về và có những biểu hiện, hành động khiến chị lo sợ. Vợ chồng liên tục cãi chửi nhau. Đến tháng 4/2014, hai anh chị sống ly thân, mỗi người một nơi, không ai quan tâm chăm sóc đến ai. Bản chất cuộc sống vợ chồng anh chị đã không còn hạnh phúc từ lâu. Đến nay, chị thấy cuộc sống chung của vợ chồng không còn hạnh phúc, chị không thể tiếp tục chung sống với anh C được nữa nên xin được ly hôn.

Về con chung: Anh chị có 01 con chung là cháu Trần Thị Hải Y sinh năm 1996. Cháu đã trưởng thành nên việc ở với ai là quyền của cháu.

Về tài sản chung và công nợ: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn – anh Trần Đức C trình bày: Anh và chị H có với nhau một con gái là cháu Trần Thị Hải Y - 1996. Vợ chồng anh chị sống hòa thuận được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh chị bất đồng về mọi việc, không hợp nhau trong cuộc sống. Anh chị đã sống ly thân được hơn 10 năm nay. Bản thân anh hiện nay không còn tình cảm gì với chị H. Anh đồng ý nếu chị H xin ly hôn nhưng anh sẽ không ra Tòa giải quyết. Chị H muốn làm thế nào thì làm, anh không quan tâm. Hiện nay, anh đang đi làm ăn xa nhưng hộ khẩu thường trú vẫn ở Đức Giang, quận Long Biên, Hà Nội. Việc Tòa án giải quyết như thế nào thì Tòa án cứ giải quyết theo pháp luật, anh sẽ không bao giờ lên Tòa án.

Về con chung: Cháu Y đã lớn ở với ai là quyền của cháu. Về tài sản chung và công nợ: Hai anh chị không có gì.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên phát biểu quan điểm về việc chấp hành pháp luật tố tụng dân sự và quan điểm giải quyết vụ án như sau:

- Về thẩm quyền: Toà án nhân dân quận Long Biên đã thụ lý và giải quyết vụ án đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

- Thẩm phán lập hồ sơ, xác minh, thu thập chứng cứ, tiến hành giao các văn bản tố tụng và tiến hành trình tự, thủ tục tại phiên toà đúng quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử tiến hành tố tụng tại phiên toà đúng trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

- Nguyên đơn thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng đúng các quy định của pháp luật. Bị đơn không đến Tòa án để làm việc vi phạm các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ Điều 19, 51, khoản 2 điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1 điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Nghị quyết số 326 về án phí, lệ phí Tòa án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị H; con chung, tài sản chung không xem xét giải quyết và chị H phải nộp án phí HNGĐST.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, HĐXX nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tòa án nhân dân quận Long Biên đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng yêu cầu anh Trần Đức C đến Tòa án để giải quyết việc ly hôn với chị H nhưng anh C đều vắng mặt không có lý do. Căn cứ điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân quận Long Biên xét xử vắng mặt anh C là đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị H và anh Trần Đức C đăng ký kết hôn ngày 16/7/1996 tại UBND thị trấn Đức Giang, huyện Gia Lâm (nay là phường Đức Giang, quận Long Biên), Hà Nội. Anh chị chung sống hạnh phúc với nhau đến năm 2008 thì nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh chị bất đồng trong quan điểm sống, không hợp nhau trong cuộc sống. Đến năm 2014 thì mâu thuẫn vợ chồng trở nên trầm trọng, anh C đi trại cai nghiện ma túy về, vợ chồng liên tục cãi chửi nhau, cuộc sống căng thẳng. Đến tháng 4/2014, anh chị sống ly thân, mỗi người một nơi, không ai quan tâm chăm sóc đến ai. Nay, chị H và anh C đều xác định không còn tình cảm vợ chồng với nhau nữa. Chị H kiên quyết ly hôn và anh C đồng ý ly hôn. Hội đồng xét xử thấy rằng: Mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H và anh C đã căng thẳng , trầm trọng kéo dài, cuộc sống chung không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H đối với anh C là có căn cứ và phù hợp với pháp luật.

[3] Về con chung: Anh chị có 01 con chung là cháu Trần Thị Hải Y sinh năm 1996. Hiện nay, cháu Y đã trên 18 tuổi và có đầy đủ năng lực trách nhiệm dân sự, hai anh chị không yêu cầu xem xét nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề giải quyết.

[4] Về tài sản chung và công nợ: Chị H và anh C không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề giải quyết.

[5] Đề nghị của Đại diện Viện Kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[6] Về án phí: Chị H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

[7] Về quyền kháng cáo: Chị H và anh C được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 4 Điều 147; Điều 227; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ các Điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Lê Thị H đối với anh Trần Đức C. Chị H được ly hôn với anh C.

2. Về con chung: Hai anh chị có 01 con chung là cháu Trần Thị Hải Y sinh năm 1996. Cháu Y đã trên 18 tuổi và hai anh chị không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề giải quyết.

3. Về tài sản chung và công nợ: Chị H và anh C không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề giải quyết.

4. Về án phí: Chị H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Chị H đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai số 0000200 ngày 16/03/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Long Biên. Nay, chuyển thành án phí.

5. Quyền kháng cáo: Chị H và anh C có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 43/2018/HNGĐ-ST ngày 04/09/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:43/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;