TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẢNG TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH
BẢN ÁN 43/2018/DS-ST NGÀY 02/11/2018 VỀ TRANH CHẤP HỌ
Ngày 02 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 22/2018/TLST- TCDS ngày 10/8/2018 về “Tranh chấp về họ”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2018/QĐXXST-DS, ngày 05/10/2018, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị T, sinh năm 1977; địa chỉ: thôn H, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình.
2. Bị đơn:
Ông Lê Quốc N, sinh năm 1970; địa chỉ: thôn D, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình.
Bà Trần Thị Hồng M, sinh năm 1961; địa chỉ: thôn D, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình.
Tại phiên tòa nguyên đơn, bị đơn có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 30/7/2018, bản tự khai và tại phiên tòa, nguyênđơn chị Phạm Thị T trình bày: Do biết được ông Lê Quốc N, bà Trần Thị Hồng M làm chủ họ nên chị và ông N, bà M đã thỏa thuận chơi họ có tính lãi. Phần họ chị đóng mỗi ngày là 100.000 đồng, đóng từ ngày 21/11/2015 đến ngày 20/3/2016 (04 tháng), tổng cộng số tiền là 12.000.000 đồng. Khi đến thu tiền họ ông N, bà M có ký vào sổ cá nhân của chị. Tuy nhiên, đến ngày 21/3/2016, ông N, bà M tuyên bố vỡ họ nên không trả lại số tiền đã thu của chị. Chị đồng ý cho ông N, bà M số tiền lãi 800.000 đồng, còn lại số tiền 11.200.000 đồng. Chị yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Lê Quốc N, bà Trần Thị Hồng M phải thanh toán cho chị một lần với tổng số tiền họ còn nợ là 11.200.000 đồng, không yêu cầu phải tính lãi.
Tại bản tự khai, biên bản phiên họp và hòa giải cũng như tại phiên toà, bị đơn ông Lê Quốc N, bà Trần Thị Hồng M thống nhất trình bày: Giữa ông bà với chị T có thỏa thuận chơi họ có tính lãi như ý kiến chị T đã trình bày. Phần họ thu từ chị T mỗi ngày là 100.000 đồng, tính từ ngày 21/11/2015 cho đến ngày 20/3/2016 (04 tháng), tổng cộng số tiền thu của chị T là 12.000.000 đồng theo đúng sổ sách, giấy tờ mà chị T cung cấp và trình bày tại Tòa án. Ông N, bà M thừa nhận còn nợ tiền họ của chị T số tiền 11.200.000 đồng, do ông bà đang gặp hoàn cảnh khó khăn, bị vỡ họ nên không có khả năng thanh toán một lần mà có nguyện vọng xin chị T cho ông bà được trả dần.
Ông N và bà M thừa nhận sống chung với nhau như vợ chồng từ năm 2007 nhưng không có đăng ký kết hôn.
Ngày 20/9/2018, Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch đã tiến hành xác minh tại Ủy ban nhân dân xã Q kết quả thể hiện: Tại hồ sơ lưu trữ tại Ủy ban nhân dân xã Q không thể hiện việc đăng ký kết hôn giữa ông Lê Quốc N và bà Trần Thị Hồng M.
Đại diện VKSND huyện Quảng Trạch phát biểu quan điểm:
Về tuân theo pháp luật tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến trước khi Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và người tham gia tố tụng đã tuân theo pháp luật tố tụng. Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Trạch không có kiến nghị đối với vụ án này.
Về việc giải quyết vụ án: đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 298, Điều 479 Bộ luật Dân sự năm 2005, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị T, buộc bị đơn ông Lê Quốc N, bà Trần Thị Hồng M phải có nghĩa vụ thanh toán cho chị T số tiền họ còn nợ là 11.200.000 đồng; buộc bị đơn phải chịu toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Chị Phạm Thị T khởi kiện yêu cầu ông Lê Quốc N, bà Trần Thị Hồng M phải thanh toán số tiền nợ họ 11.200.000 đồng. Vì vậy, xác định đây là “Tranh chấp về họ” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch theo khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung tranh chấp, yêu cầu của đương sự:
Theo yêu cầu khởi kiện, lời trình bày của các đương sự và tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án xác định: Giữa chị T và ông N, bà M đã thỏa thuận với hình thức chơi họ có tính lãi. Qua đó, chị T đã góp họ và ông N, bà M mỗi ngày 100.000 đồng, tính từ ngày 21/11/2015 đến ngày 20/3/2016 (04 tháng), tổng cộng số tiền là 12.000.000 đồng, trừ số tiền lãi 800.000 đồng chị T không yêu cầu, còn lại 11.200.000 đồng. Do ông N, bà M không thanh toán khoản tiền họ đã thu, nên chị T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông N, bà M phải trả nợ khoản tiền họ trên.
Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là hoàn toàn có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật, căn cứ vào các Điều 298, 479 của Bộ luật Dân sự năm 2005, Điều 15, 29 của Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị T, buộc ông N, bà M phải có nghĩavụ thanh toán cho chị T số tiền nợ họ là 11.200.000 đồng.
Hội đồng xét xử xét thấy, ông Lê Quốc N và bà Trần Thị Hồng M thừa nhận sống chung với nhau như vợ chồng từ năm 2007 nhưng theo biên bản xác minh ngày 20/9/2018 của Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch tại Ủy ban nhân dân xã Q thể hiện ông N và bà M không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Như vậy, ông N và bà M phải chịu nghĩa vụ liên đới đối với khoản nợ tiền họ 11.200.000 đồng đồng của chị T theo quy định tại Điều 298 Bộ luật Dân sự năm 2005, theo đó, ông N và bà M mỗi người phải có nghĩa vụ trả nợ cho chị T số tiền nợ họ là 5.600.000 đồng.
[3] Xét quan điểm, đề xuất của Kiểm sát viên tại phiên tòa về hướng giải quyết vụ án là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, phù hợp với quy định của pháp luật nên chấp nhận.
[4] Về án phí: Do yêu cầu của của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch theo quy định của pháp luật. Ông N, bà M có đơn xin giảm án phí do điều kiện hoàn cảnh kinh tế gia đình đang rất khó khăn, gặp sự kiện bất khả kháng. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét giảm 50% số tiền án phí cho ông N, bà M.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 298, 479 của Bộ luật Dân sự năm 2005; Khoản 1 Điều 13, Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị T.
Buộc ông Lê Quốc N và bà Trần Thị Hồng M phải có nghĩa vụ liên đới trả cho chị Phạm Thị T số tiền nợ họ là 11.200.000 đồng, theo phần mỗi người phải có nghĩa vụ trả cho chị Phạm Thị T số tiền nợ họ là 5.600.000 đồng (năm triệu sáu trăm nghìn đồng).
“Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan Thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án, theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015”.
2. Về án phí:
Buộc ông Lê Quốc N, bà Trần Thị Hồng M mỗi người phải chịu số tiền án phí là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) để sung công quỹ nhà nước. Tòa án xét giảm 50% số tiền án phí cho ông N, bà M. Số tiền án phí ông Lê Quốc N, bà Trần Thị Hồng M còn phải nộp mỗi người là 150.000 đồng (một trăm năm mươi nghìn đồng).
Chị Phạm Thị T được nhận lại số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình theo biên lai thu số 0001126 ngày 08/8/2018.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.
Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 02/11/2018).
Bản án 43/2018/DS-ST ngày 02/11/2018 về tranh chấp họ
Số hiệu: | 43/2018/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quảng Trạch - Quảng Bình |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 02/11/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về