Bản án 43/2017/HSPT ngày 07/07/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH 

BẢN ÁN 43/2017/HSPT NGÀY 07/07/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07/7/2017, tại Trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình mở phiên toà công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 38/2017/HSPT ngày 18/5/2017 đối với bị cáo Đặng Trung Đ do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 11/2017/HSST ngày 14/4/2017 của Toà án nhân dân huyện Quảng Ninh.

Bị cáo kháng cáo: Đng Trung Đ, sinh ngày 16 tháng 4 năm 1990 tại xã G, huyện N, tỉnh Quảng Bình; Đăng ký hộ khẩu thừng trú và nơi cư trú trước khi bị bắt: Thôn P, xã G, huyện N, tỉnh Quảng Bình; trình độ văn hoá: Lớp 8/12; nghề nghiệp: Không; dân tộc: Kinh; con ông Đặng Thành T và bà Phạm Thị V (đã chết); có vợ Nguyễn Thị K, có 02 con sinh các năm 2008, 2016; tiền án: Không; tiền sự: Không, bị bắt tạm giữ ngày 08/12/2016 sau đó chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Bình, có mặt.

Trong vụ án còn có người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Anh M nhưng không có kháng cáo, án không bị kháng nghị nên Toà án không triệu tập tham gia phiên toà phúc thẩm.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Ninh và Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2017/HSST ngày 14/4/2017 của Toà án nhân dân huyện Quảng Ninh, thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 07/12/2016, Nguyễn Anh M, (là em vợ Đ) điều khiển xe ô tô BKS 73A-016.20 chở Đặng Trung Đ về thành phố H chơi đến khoảng 17 giờ, M chở Đ lên lại thôn P, xã G, khi đến Trạm thu phí QH, thuộc địa phận xã V, huyện N thì bị cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N tuần tra phát hiện và lập biên bản phạm tội quả tang, thu giữ 65 viên nén màu hồng (tất cả đều có chữ WY) trên người của Nguyễn Anh M, M và Đ khai đó là ma túy tổng hợp.

Khám xét khẩn cấp tại chỗ ở của Đặng Trung Đ ở thôn P, xã G, huyện N, tỉnh Quảng Bình. Cơ quan CSĐT Công an huyện N đã phát hiện và thu giữ 14 viên (mười bốn) nén màu hồng có chữ WY đựng trong 04 ống nhựa (01 ống màu vàng; 03 ống màu trắng) tất cả các ống nhựa được bỏ vào 03 chai nhựa màu trắng không có nắp được đục lỗ để dưới nệm giường ngủ của vợ chồng Đ.

Quá trình điều tra, Đ khai nhận đó là ma túy tổng hợp dạng hồng phiến đã mua của một người không biết rõ họ tên ở thành phố Đồng Hới mang về để sử dụng.

Tại Bản kết luận giám định số 102/GĐ-PC54 ngày 09/12/2016 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình kết luận: 14 (mười bốn) viên nén do cơ quan CSĐT Công an huyện N, tỉnh Quảng Bình phát hiện, thu giữ khi khám xét nhà ở của Đặng Trung Đ là Methamphetamine, trọng lượng 1,381 (một phẩy ba trăm tám mươi mốt) gam.

Cáo trạng số 10/THQCT - KSĐT - MT ngày 15 tháng 3 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Ninh truy tố Đặng Trung Đ về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự.

Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2017/HSST ngày 14/4/2017 của Toà án nhân dân huyện Quảng Ninh quyết định tuyên bố bị cáo Đặng Trung Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự 1999; Nghị quyết số 109/2015/QH13 ngày 27/11/2015; Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 của Quốc hội, khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 về thực hiện các Điều có lợi cho người phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27/11/2015; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự số 15/1999/QH10 ngày 21/12/1999. Xử phạt bị cáo Đặng Trung Đ 18 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 08/12/2016.

Án sơ thẩm còn tuyên xử lý vật chứng vụ án, tuyên buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, tuyên quyền kháng cáo của bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định của pháp luật.

Trong hạn luật định, ngày 18/4/2017, bị cáo Đặng Trung Đ kháng cáo trình bày hoàn cảnh khó khăn, xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên toà phúc thẩm:

Bị cáo Đặng Trung Đ khai và thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo theo hành vi tàng trữ 14 viên (mười bốn) nén màu hồng có chữ WY, được Cơ quan chức năng giám định kết luận là Methamphetamine, trọng lượng 1,381 (một phẩy ba trăm tám mươi mốt) gam đúng như Cáo trạng truy tố và xét xử của án sơ thẩm.

Luật sư bào chữa cho bị cáo không tranh luận tội danh, khung hình phạt, điều luật mà án sơ thẩm đã áp dụng đối với bị cáo, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng, bị cáo có hoàn cảnh gia đình thực sự khó khăn, được chính quyền địa phương đề nghị để giảm án cho bị cáo vì mức án theo quyết định của án sơ thẩm là quá nghiêm khắc đối với bị cáo; nghe ý kiến xin được giảm án của bị cáo.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố xét xử phúc thẩm vụ án đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ y án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ vụ án. Sau khi nghe ý kiến của Luật sư; Kiểm sát viên; ý kiến của bị cáo.

1, Về tội danh:

Theo lời khai của bị cáo Đặng Trung Đ tại phiên toà phúc thẩm phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ vụ án, hành vi phạm tội của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành của tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” được quy định tại Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999, Bản án sơ thẩm số 11/2017/HSST ngày 14/4/2017 của Toà án nhân dân huyện Quảng Ninh quyết định tuyên bố bị cáo Đặng Trung Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” là đúng người, đúng tội, có căn cứ, đúng pháp luật.

2, Về hình phạt:

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý của bị cáo Đặng Trung Đ bị phát hiện thông qua việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N lập biên bản phạm tội quả tang, thu giữ 65 viên nén màu hồng có chữ WY trên người của Nguyễn Anh M khi Nguyễn Anh M, (là em vợ Đ) đang điều khiển xe ô tô con Biển kiểm soát 73A-016.20 chở Đặng Trung Đ từ thành phố Đồng Hới lên xã Gia N, cả Đ và M khai đó là ma túy tổng hợp, tiến hành khám xét khẩn cấp tại chỗ ở của Đặng Trung Đ, Cơ quan CSĐT Công an huyện N phát hiện và thu giữ 14 viên (mười bốn) nén màu hồng có chữ WY đựng trong 04 ống nhựa để dưới nệm giường ngủ của vợ chồng Đ. Do không có đủ căn cứ để xử lý Đ theo 65 viên nén màu hồng có chữ WY được thu giữ trên người của Nguyễn Anh M nên chỉ xử lý Đặng Trung Đ về hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý theo 14 viên nén màu hồng có chữ WY, được Cơ quan chức năng giám định kết luận là Methamphetamine, trọng lượng 1,381g. Bị cáo biết và nhận thức được tác hại của việc sử dụng trái phép chất ma tuý, biết và nhận thức được mọi hành vi liên quan đến mua bán, vận chuyển, tàng trữ trái phép chất ma tuý là vi phạm pháp luật, nếu có đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì bị xử phạt với mức án rất nghiêm khắc nhưng bị cáo vẫn bất chấp quy định để tàng trữ trái phép chất ma tuý. Trong vụ án này bị cáo đã tàng trữ trái phép chất ma tuý là Methamphetamine, trọng lượng 1,381g, Methamphetammine nằm trong Danh mục II, Số thứ tự: 67, Nghị định số 82/2013-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ nên bị truy tố và xét xử theo khoản 1 Điều 194  Bộ luật Hình sự 1999;  điểm c  khoản 1  Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 theo Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 của Quốc hội; Nghị quyết số 01/2016/NQ-HĐTP ngày 30/6/2016 của Hội đồng Thẩm phán Toà án NDTC Hướng dẫn áp dụng một số quy định tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13; Công văn số 276/TANDTC-PC ngày 13/9/2016 của Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật Hình sự năm 2015, có mức án từ 1 đến 5 năm tù. Theo trọng lượng, loại chất ma tuý mà bị cáo đã tàng trữ trái phép, tình tiết giảm nhẹ theo điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự mà bị cáo được hưởng, mức án 18 tháng tù mà án sơ thẩm đã quyết định xử phạt đối với bị cáo là không nặng. Bị cáo kháng cáo nhưng không có thêm tình tiết giảm nhẹ mới chưa được án sơ thẩm xem xét nên cấp phúc thẩm không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo giảm án cho bị cáo.

3, Về án phí: Bị cáo Đặng Trung Đ kháng cáo không được chấp nhận nên phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại Điều 99 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu Án phí, lệ phí Toà án.

Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.

Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định tạm giam bị cáo để bảo đảm thi hành án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 248 Bộ luật Tố tụng hình sự; Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đặng Trung Đ và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

1, Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999; điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 theo Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 của Quốc hội; Nghị quyết số 01/2016/NQ-HĐTP ngày 30/6/2016 của Hội đồng Thẩm phán Toà án NDTC Hướng dẫn áp dụng một số quy định tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13; Công văn số 276/TANDTC-PC ngày 13/9/2016 của Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật Hình sự năm 2015; Xử phạt bị cáo Đặng Trung Đ 18 tháng tù (mười tám tháng) về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ 08/12/2016 sau đó chuyển tạm giam.

Căn cứ vào các Điều 79, 80, 88 và Điều 243 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định tạm giam bị cáo Đặng Trung Đ để đảm bảo thi hành án với thời hạn tạm giam 45 ngày kể từ ngày tuyên án phúc thẩm (07/7/2017).

2, Về án phí hình sự phúc thẩm:

Căn cứ Điều 99 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu Án phí, lệ phí Toà án;

Bị cáo Đặng Trung Đ phải nộp 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án phúc thẩm (07/7/2017).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

563
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 43/2017/HSPT ngày 07/07/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:43/2017/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;