Bản án 43/2017/HNGĐ-ST ngày 18/09/2017 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 43/2017/HNGĐ-ST NGÀY 18/09/2017 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 18 tháng 9 năm 2017 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Long Biên xét xử sơ thẩm C khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 203/2017/TLST-HNGĐ ngày 26/4/2017 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 103/2017/QĐXX-ST ngày 31/7/2017 và quyết định hoãn phiên toà ngày 30/8/2017 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Phạm Chí C - sinh năm 1987

HKTT: Xóm C - xã K - huyện Yên Khánh - tỉnh Ninh Bình. Tạm trú: Tổ B - phường N - quận Long Biên - Hà Nội.

Bị đơn: Chị Lê Thị Bích L - sinh năm 1988

HKTT: Xóm C - xã K - huyện Yên Khánh - tỉnh Ninh Bình. Tạm trú: Tổ B - phường N - quận Long Biên - Hà Nội

(Anh C có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, chị L vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Tại đơn xin ly hôn và các lời khai tại Toà án anh Phạm Chí C là Nguyên đơn trình bày:

- Về tình cảm: Anh và chị Lê Thị Bích L xây dựng gia đình trên cơ sở tự nguyện có tìm hiểu và đăng ký kết hôn ngày 22/3/2012 tại UBND xã Khánh Nhạc - huyện Yên Khánh - tỉnh Ninh Bình.Ngay sau khi kết hôn, cuộc sống vợ chồng đã phát sinh nhiều mâu thuẫn, thường xảy ra xô xát, cãi cọ. Nguyên nhân chủ yếu là do tính cách, lối sống trái ngược nhau. Kinh tế gia đình khó khăn, nhà phải đi thuê chật chội, thiếu thốn. C việc của anh là làm điều dưỡng ở bệnh viện, phải thường xuyên đi trực đêm rất vất vả nhưng chị L không thông cảm, chia sẻ, động viên, mà còn ghen tuông vô cớ, chửi bới xúc phạm, làm mất uy tín, danh dự của anh. Cuộc sống gia đình luôn căng thẳng, ngột ngạt. Mâu thuẫn vợ chồng đã được hai bên gia đình nhiều lần hoà giải, khuyên bảo nhưng chị L không tiếp thu. Anh chị chính thức ly thân từ đầu năm 2017, tuy ở cùng nhà nhưng không ai quan tâm đến ai. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng đã hết, anh kiên quyết yêu cầu ly hôn chị L để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Anh chị có 01 con chung là Phạm Minh P - sinh ngày 25/6/2014 (Nam). Hiện nay cháu P đang ở với chị L. Sau khi ly hôn, anh đồng ý để chị L được trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng con chung. Hiện anh đang làm điều dưỡng tại Bệnh viên quân đội Trung ương 108, có tổng thu nhập hợp pháp khoảng 10.000.000đ (Mười triệu đồng chẵn)/ tháng. Anh tự nguyện đóng góp phí tổn nuôi con cho chị L số tiền là 5.000.000đ (Năm triệu đồng chẵn)/ tháng.

- Về tài sản chung và C nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về án phí: Anh C phải chịu toàn bộ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

* Bị đơn trong vụ án là chị Lê Thị Bích L , trong quá trình toà án thụ lý giải quyết vụ án ly hôn đã nhiều lần được Toà án triệu tập hợp lệ đến Toà án để C khai chứng cứ, hoà giải về việc anh C xin ly hôn nhưng chị L vắng mặt không có lý do và không có bất kỳ lời khai nào trong suốt quá trình Toà án giải quyết vụ án.

Tại phiên tũa anh C xin vắng mặt và vẫn giữ nguyên toàn bộ các lời khai và yêu cầu của mình, không có ý kiến gì bổ sung và không có đề nghị đưa thêm người vào tham gia tố tụng trong vụ án.

Đại diện viện kiểm sát tham gia phiên toà phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án như sau:

- Quá trình tiến hành tố tụng Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ thủ tục theo quy định của pháp luật.

- Đối với việc chấp hành pháp luật của đương sự:

+ Nguyên đơn chấp hành đảm bảo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

+ Bị đơn không chấp hành đầy đủ, chống đối không đưa ra tài liệu chứng cứ để bảo vệ quyền lợi cho mình.

*Về nội dung vụ án:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh C, chị L kết hôn tự nguyện có đăng ký kết hôn đầy đủ theo pháp luật. Nay anh C thấy tình cảm vợ chồng đã hết không còn khả năng đoàn tụ nên xin ly hôn chị L . Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh C .

- Về con chung: Anh chị cú một con chung là: Phạm Minh P - sinh ngày 25/6/2014 (Nam). Hiện nay cháu P đang ở với chị L. Sau khi ly hôn, anh C đồng ý để chị L được tiếp tục chăm sóc và nuôi dưỡng con chung. Anh tự nguyện đóng góp phí tổn nuôi con cho chị L số tiền là 5.000.000đ (Năm triệu đồng chẵn)/ tháng. Đây là sự tự nguyện của đương sự cần được ghi nhận.

- Về tài sản chung và C nợ: Các đương sự không yêu cầu Tòa giải quyết nên đề nghị không xét.

- Về án phí: Anh C phải chịu toàn bộ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

1- Về thủ tục tố tụng:

- Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Anh Phạm Chí C xin ly hôn chị Lê Thị Bích L cùng có hộ khẩu thường trú tại xóm Chùa - xã Khánh Nhạc - huyện Yên Khánh - tỉnh Ninh Bình. Hiện hai anh chị đang thuê nhà sinh sống, ăn ở và đăng ký tạm trú tại tổ 14 - phường Ngọc Thụy - quận Long Biên - TP Hà Nội. Qua xác minh thu thập chứng cứ thì hiện nay chị L vẫn đang tạm trú tại địa chỉ trên không có nơi cư trú nào khác. Do vậy việc anh C khởi kiện là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân quận Long Biên - TP Hà Nội.

- Bị đơn trong vụ án chị Lê Thị Bích L trong suốt quá trình giải quyết vụ án Toà án đã thực hiện đầy đủ thủ tục theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, được toà án triệu tập nhiều lần nhưng đều vắng mặt. Ngày 30/8/2017, Toà án mở phiên toà lần thứ nhất để xét xử vụ án nhưng chị L vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên toà để xét xử vào ngày 18/9/2017. Tại phiên toà ngày 18/9/2017, chị L tiếp tục vắng mặt, xét thấy đây là lần thứ hai chị L vắng mặt tại phiên toà không có lý do mặc dù đã được toà án tống đạt hợp lệ, đồng thời anh C là nguyên đơn cũng có đơn đề nghị Toà án giải quyết, xét xử vắng mặt nên Toà án tiến hành xét xử vắng mặt anh C, chị L là phù hợp với quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

2- Về nội dung vụ án:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh Phạm Chí C và chị Lê Thị Bích L kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu và đi đến hôn nhân vào năm 2012, vợ chồng có đăng ký kết hôn vào ngày 22/3/2012 tại UBND xã Khánh Nhạc - huyện Yên Khánh - tỉnh Ninh Bình. Xác định đây là hôn nhân hợp pháp.

Ngay sau khi kết hôn, cuộc sống vợ chồng đã phát sinh nhiều mâu thuẫn, thường xảy ra xô xát, cãi cọ. Nguyên nhân chủ yếu là do tính cách, lối sống trái ngược nhau. Giữa vợ chồng không có sự yêu thương, chia sẻ, tin tưởng và tôn trọng lẫn nhau dẫn tới cuộc sống chung thường xuyên căng thẳng, không có hạnh phúc. Mâu thuẫn vợ chồng đã được hai bên gia đình nhiều lần hoà giải, khuyên bảo nhưng không có kết quả. Anh chị chính thức ly thân và cắt đứt mọi quan hệ từ khoảng đầu năm 2017, không ai quan tâm đến ai. Xét thấy việc anh C cho rằng tình cảm không còn, anh chị sống ly thân đã trải qua một thời gian dài, không ai quan tâm đến ai, mục đích hôn nhân không đạt được. Qua tìm hiểu và trao đổi với gia đình anh C thì gia đình cũng đã phân tích động viên hoà giải cho hai anh, chị nhưng không có kết quả. Chị L không xuất trình được bất cứ tài liệu chứng cứ gì để chứng minh việc đưa ra giải pháp để cải thiện tình cảm vợ chồng mà có thái độ chống đối, không hợp tác cơ quan pháp luật để bảo vệ quyền lợi cho mình. Toà án đã nhiều lần tiến hành C khai chứng cứ và hòa giải nhưng chị L vẫn vắng mặt không có lý do và cố tình vắng mặt trong các buổi C khai chứng cứ, hoà giải khi Toà án triệu tập. Điều này thể hiện mâu thuẫn vợ chồng anh C, chị L là trầm trọng, vợ chồng đã ly thân một thời gian dài, tình cảm vợ chồng rạn nứt. Chị L đã được Toà án tạo điều kiện để tham gia các phiên hoà giải nhưng đều vắng mặt cho thấy chị không có mong muốn và nguyện vọng hòa giải đoàn tụ với nguyên đơn. Vì vậy Hội đồng xét xử thấy rằng cuộc sống chung giữa anh C và chị L không thể kéo dài do mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, nên yêu cầu xin ly hôn của anh C là có căn cứ và phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình nên được chấp nhận.

- Về con chung: Vợ chồng anh chị có một con chung là: Phạm Minh P - sinh ngày 25/6/2014 (Nam). Hiện nay cháu P đang ở với chị L. Sau khi ly hôn, anh C đồng ý để chị L được trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng con chung. Xét điều kiện và khả năng nuôi con của anh C thể hiện anh có khả năng nuôi con vì anh có C việc và thu nhập ổn định hàng tháng, có nơi ở ổn định. Mặt khác, chị L trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án không có chứng cứ để chứng minh việc nuôi con. Do vậy việc xem xét giao con cho ai nuôi dưỡng cần phải xét mọi mặt đảm bảo về quyền lợi của con. Tuy nhiên, do anh C tự nguyện đồng ý để chị L được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, không cần thiết phải thay đổi người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, dẫn đến sự thay đổi, xáo trộn cuộc sống sinh hoạt bình thường của trẻ nên chấp nhận ý kiến này của anh C giao cho chị L được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Phạm Minh P - sinh ngày 25/6/2014 (Nam) cho đến khi cháu P thành niên hoặc đến khi có sự thay đổi khác là có căn cứ và phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình.

Về việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Anh C tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho chị L số tiền là 5.000.000đ (Năm triệu đồng chẵn)/tháng. Đây là sự tự nguyện của đương sự cần được ghi nhận.

- Về tài sản chung và C nợ: Không xem xét.

Quá trình giải quyết vụ án cho đến trước khi Toà án C khai chứng cứ và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử chị L là bị đơn không có yêu cầu phản tố nên Toà án không xét. Nếu sau này phát sinh tranh chấp các đương sự có quyền khởi kiện đến Toà án bằng một vụ án khác theo quy định của pháp luật.

- Về án phí: Anh C phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng chẵn) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Từ những nhận định trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ vào các Điều 56, 81, 82 và 83 của Luật hôn nhân và gia đình.

- Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Phạm Chí C đối với chị Lê Thị Bích L. Anh Phạm Chí C được ly hôn chị Lê Thị Bích L .

2. Về con chung: Giao cho chị Lê Thị Bích L được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Phạm Minh P - sinh ngày 25/6/2014 (Nam) cho đến khi cháu P thành niên hoặc đến khi có sự thay đổi khác.

Anh C có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với chị số tiền là 5.000.000đ (Năm triệu đồng chẵn)/ tháng đến khi con chung thành niên hoặc đến khi có sự thay đổi khác.

Anh C có quyền gặp gỡ và chăm sóc con chung, không ai được ngăn cản.

3. Về tài sản chung, cụng nợ: Không xem xột

4. Về án phí: Anh Phạm Chí C phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng chẵn) án phí hôn nhân gia đình. Xác nhận anh C đã nộp tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng chẵn) theo biên lai số 5238 ngày 26/4/2017 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Long Biên. Nay chuyển thành án phí.

Anh Phạm Chí C, chị Lê Thị Bích L vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 43/2017/HNGĐ-ST ngày 18/09/2017 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:43/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;