Bản án 431/2018/HNGĐ-ST ngày 09/11/2018 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B,TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 431/2018/HNGĐ-ST NGÀY 09/11/2018 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 09 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số: 238/2018/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 01 năm 2018 về việc “Xin ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 361/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 10 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 713/2018/QĐST-HNGĐ ngày 22 tháng 10 năm 2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Trương N, sinh năm 1993.

Trú tại: tổ 15, khu phố 3, phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: Ông Lê Vũ L, sinh năm 1990.

HKTT: tổ 28, khu phố 5, phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

 (Bà N có đơn xin xét xử vắng mặt; ông L vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 25/12/2017, bản tự khai, biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ nguyên đơn bà Nguyễn Trương N trình bày:

Bà và ông Lê Vũ L xây dựng gia đình năm 2011 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Đã được Ủy ban nhân dân phường A, thành phố B cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 08 tháng 01 năm 2011.

Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Từ năm 2017 vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi vã, ông L không lo làm ăn phụ giúp gia đình. Bà và ông Lê Vũ L sống ly thân từ đầu năm 2017 cho đến nay. Nay mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được bà xin được ly hôn với ông Lê Vũ L.

- Về quan hệ con chung: Bà và ông Lê Vũ L có 01 con chung cháu Lê Nguyễn Hải M, sinh ngày 16/11/2010. Ly hôn, bà yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Lê Nguyễn Hải M, sinh ngày 16/11/2010, bà không yêu cầu ông Lê Vũ L cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

- Bị đơn ông Lê Vũ L: Vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, không nộp bản tự khai, không cung cấp tài liệu chứng cứ đối với yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của bà Nguyễn Trương N.

Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B:

Về việc kiểm sát chấp hành pháp luật tố tụng: Nguyên đơn, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định pháp luật tố tụng. Bị đơn không thực hiện đúng quy định pháp luật tố tụng.

Về việc giải quyết tranh chấp:

- Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa bà Nguyễn Trương N và ông Lê Vũ L là hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, nên là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống bà Nguyễn Trương N và ông Lê Vũ L phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi vã. Bà Nguyễn Trương N và ông Lê Vũ L sống ly thân từ đầu năm 2017 cho đến nay. Căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình: Đề nghị chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Nguyễn Trương N.

- Về quan hệ con chung: Bà Nguyễn Trương N và ông Lê Vũ L có 01 con chung cháu Lê Nguyễn Hải M, sinh ngày 16/11/2010. Ly hôn, bà Nguyễn Trương N yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Lê Nguyễn Hải M, sinh ngày 16/11/2010, bà Nguyễn Trương N không yêu cầu ông Lê Vũ L cấp dưỡng nuôi con chung. Tại bản tự khai ngày 13/3/2018 cháu Lê Nguyễn Hải M, sinh ngày 16/11/2010 có nguyện vọng sống với bà Nguyễn Trương N, mặt khác cháu My là nữ nên cần có sự chăm sóc của bà Nguyễn Trương N. Nên giao con chung cháu Lê Nguyễn Hải M, sinh ngày 16/11/2010 cho bà Nguyễn Trương N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Do bà Nguyễn Trương N không yêu cầu ông Lê Vũ L cấp dưỡng nuôi con chung, tạm thời ông Lê Vũ L không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung: Theo bà Nguyễn Trương N trình bày bà Nguyễn Trương N và ông Lê Vũ L không có tài sản chung nhưng do ông Lê Vũ L vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

Về nợ chung: Theo bà Nguyễn Trương N trình bày bà Nguyễn Trương N và ông Lê Vũ L không có nợ chung nhưng do ông Lê Vũ L vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

Về án phí: Bà Nguyễn Trương N phải chịu theo quy định pháp luật.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ Điều 56, Điều 81, 82, 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Trương N.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng:

Ngày 22/10/2018 bà Nguyễn Trương N có đơn xin xét xử vắng mặt nên xét xử vắng mặt bà Nguyễn Trương N theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

Tòa án nhân dân thành phố B đã tiến hành thủ tục tống đạt và niêm yết thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập đương sự, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa cho bị đơn ông Lê Vũ L để làm việc, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, tham gia phiên tòa theo quy định của pháp luật nhưng ông Lê Vũ L vẫn vắng mặt không đến Tòa án nhân dân thành phố B để làm việc, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, tham gia phiên tòa theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Căn cứ khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 xét xử vắng mặt ông Lê Vũ L.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

Bà Nguyễn Trương N và ông Lê Vũ L kết hôn vào năm 2011 tại Ủy ban nhân dân phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai và đã được Ủy ban nhân dân phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 08/01/2011 đúng theo quy định tại Điều 9, Điều 11, Điều 12 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 nên được xác định là hôn nhân hợp pháp.

Theo bà Nguyễn Trương N trình bày quá trình chung sống bà Nguyễn Trương N và ông Lê Vũ L phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi vã. Bà Nguyễn Trương N và ông Lê Vũ L sống ly thân từ đầu năm 2017 cho đến nay. Bà Nguyễn Trương N xin ly hôn ông Lê Vũ L.

Tại biên bản xác minh ngày 22/8/2018 của Tòa án nhân dân thành phố B: Công an khu phố 5, phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai cung cấp ông Lê Vũ L, sinh năm 1990 có hộ khẩu thường trú: B38B, tổ 28, khu phố 5, phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Hiện tại ông Lê Vũ L đang sinh sống tại địa phương.

Tại biên bản xác minh ngày 17/9/2018 của Tòa án nhân dân thành phố B: Trưởng khu phố 5, phường A, thành phố B cung cấp bà Nguyễn Trương N và ông Lê Vũ L quá trình chung sống tại địa phương mâu thuẫn như thế nào địa phương không nắm. Từ tháng 01 năm 2018 cho đến nay bà Nguyễn Trương N không còn chung sống cùng nhà với ông Lê Vũ L, bà Nguyễn Trương N và ông Lê Vũ L sống ly thân từ tháng 01 năm 2018 cho đến nay. Về quan hệ con chung: Bà Nguyễn Trương N và ông Lê Vũ L có 01 con chung cháu Lê Nguyễn Hải M, sinh ngày 16/11/2010. Hiện cháu Lê Nguyễn Hải M sống cùng bà Nguyễn Trương N. Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: địa phương không nắm. Nay bà Nguyễn Trương N xin ly hôn ông Lê Vũ L địa phương không có ý kiến, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.

Xét mâu thuẫn giữa bà Nguyễn Trương N và ông Lê Vũ L đã xảy ra, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nên cho bà Nguyễn Trương N được ly hôn với ông Lê Vũ L.

[3] Về quan hệ con chung: Bà Nguyễn Trương N và ông Lê Vũ L có 01 con chung cháu Lê Nguyễn Hải M, sinh ngày 16/11/2010. Bà Nguyễn Trương N có nguyện vọng nuôi con chung cháu Lê Nguyễn Hải M, bà Nguyễn Trương N không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con chung. Theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân gia đình quy định “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”. Tại bản tự khai ngày 13/3/2018 cháu Lê Nguyễn Hải M, sinh ngày 16/11/2010 có nguyện vọng sống với bà Nguyễn Trương N, mặt khác cháu My là nữ nên cần có sự chăm sóc của bà Nguyễn Trương N. Vì vậy, giao cháu Lê Nguyễn Hải M, sinh ngày 16/11/2010 cho bà Nguyễn Trương N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp. Do bà Nguyễn Trương N không yêu cầu ông Lê Vũ L cấp dưỡng nuôi con chung nên tạm thời ông Lê Vũ L không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Ông Lê Vũ L không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết các đương sự có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như mức cấp dưỡng nuôi con chung.

[4] Về tài sản chung: Theo bà Nguyễn Trương N trình bày Bà N và ông Lê Vũ L không có tài sản chung nhưng do ông Lê Vũ L vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[5] Về nợ chung: Theo bà Nguyễn Trương N trình bày Bà N và ông Lê Vũ L không có nợ chung nhưng do ông Lê Vũ L vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[6] Về án phí: Bà Nguyễn Trương N phải chịu 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.

[7] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B về việc giải quyết tranh chấp và nghĩa vụ chịu án phí của bà Nguyễn Trương N là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 203, Điều 220, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Áp dụng Điều 9, Điều 11, Điều 12 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.

Áp dụng Điều 51, 54, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 và Điều 131 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

TUYÊN XỬ:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Trương N đối với ông Lê Vũ L về việc “Xin ly hôn”.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Trương N được ly hôn với ông Lê Vũ L.

- Về quan hệ con chung: Bà Nguyễn Trương N và ông Lê Vũ L có 01 con chung cháu Lê Nguyễn Hải M, sinh ngày 16/11/2010.

Giao con chung cháu Lê Nguyễn Hải M, sinh ngày 16/11/2010 cho bà Nguyễn Trương N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Tạm thời ông Lê Vũ L không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Ông Lê Vũ L không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết các đương sự có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như mức cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung: không đặt ra xem xét, giải quyết.

Về nợ chung: không đặt ra xem xét, giải quyết.

Về án phí: Bà Nguyễn Trương N phải chịu 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm. Số tiền 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí sơ thẩm bà Nguyễn Trương N nộp theo biên lai số 006124 ngày 12/01/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Đồng Nai được tính trừ án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Bà Nguyễn Trương N và ông Lê Vũ L có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 431/2018/HNGĐ-ST ngày 09/11/2018 về xin ly hôn

Số hiệu:431/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;