TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 424/2023/DS-PT NGÀY 30/06/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT; YÊU CẦU HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Trong các ngày 23 và ngày 30 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 629/2022/TLPT-DS ngày 09 tháng 12 năm 2022 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất; Yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.Do Bản án dân sự sơ thẩm số 18/2022/DS-ST ngày 08/9/2022 và 30/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông bị kháng cáo, kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1270/2023/QĐPT-DS ngày 30 tháng 5 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Phạm Thị NĐ, sinh năm 1975 (vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 10, phường N, thành phố G, tỉnh Đắk Nông
Người đại diện theo uỷ quyền của bà Phạm Thị NĐ: Ông Phan Công N, sinh năm 1962 (có mặt) Địa chỉ: Tổ 10, phường N, thành phố G, tỉnh Đắk Nông.
(Văn bản ủy quyền ngày 09/10/2020)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn:
1/ Luật sư Nguyễn Thanh H - Văn phòng Luật sư Nguyễn Thanh H, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đắk Nông (có mặt khi xét xử, vắng mặt khi tuyên án).
Địa chỉ: Số 144 L, phường N, thành phố G, tỉnh Đắk Nông
2/ Luật sư Nguyễn Thành C - Công ty Luật TNHH Đ, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt)..
Địa chỉ: 19B C, phường N, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh - Bị đơn:
1/ Ông Đặng Như BĐ, sinh năm 1962 (có mặt) 2/ Bà Nguyễn Thị BĐ, sinh năm 1965 (có mặt) Cùng địa chỉ: Thôn 01, xã K, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Đặng Như BĐ: Luật sư Phạm Xuân T – Công ty Luật TNHH T (có mặt khi xét xử, vắng mặt khi tuyên án).
Địa chỉ: 104 đường T, phường D, thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Ông Phan Công N, sinh năm 1962 (có mặt) Địa chỉ: Tổ 10, phường N, thành phố G, tỉnh Đắk Nông.
2/ Ông Phan Công A, sinh năm 1996 (xin vắng mặt) Địa chỉ: 96/12, N, Phường A, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh.
3/ Ông Phan Công B, sinh năm 1991 (xin vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 2, phường N, thành phố G, tỉnh Đắk Nông.
4/ Ủy ban nhân dân huyện Đ, tỉnh Đắk Nông;
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Quang T - Chức vụ: Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Đ (xin vắng mặt).
- Người kháng cáo: Nguyên đơn là bà Phạm Thị NĐ.
- Viện kiểm sát kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo nguyên đơn và người đại diện theo ủy quyền ông Phan Công N trình bày:
Năm 1993, do hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, gia đình ông có nhu cầu đi tìm đất trống thuộc xã K (cũ), huyện Đ để khai hoang trồng trọt, cải thiện cuộc sống. Gia đình ông đã tìm được khu đất trống thuộc thôn 01, xã K (cũ) do Lâm trường H quản lý. Nguồn gốc đất là bãi đất Lâm Trường sử dụng vào mục đích tập kết gỗ khai thác, thời điểm này gọi là Bãi Hai.Hiện trạng đất khi gia đình ông tiếp quản là cây bụi có một số cây rừng tự nhiên, mọc thưa phía sau.
Năm 1995, gia đình ông làm đơn xin đất gửi Lâm trường H và Ủy ban nhân dân xã K (cũ) được mượn khu đất này để quản lý, sử dụng. Gia đình ông đã phát dọn tỉa lúa, sau đó trồng một số cây cà phê xen điều.Sau khi cà phê bị cháy gia đình ông đã trồng lại cây cao su và cây mì để chăn nuôi.
Ngày 26/02/1998, gia đình ông được Uỷ ban nhân dân huyện Đ cấp giấy xác nhận quyền sử dụng đất số 94/XN-SDĐ.Về mặt pháp lý thời điểm này được xem là bìa trắng có giá trị tương đương giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.Tổng diện tích đất được cấp là 41.846m2 bao gồm 03 thửa. Thửa thứ nhất có diện tích 20.623m2; thửa số 2 có diện tích 11.152m2; thửa số 3 có diện tích 10.071m2. Thửa số 3 nay là thửa 93, tờ bản đồ số 21, vào thời điểm đó có vị trí tiếp giáp như sau:Phía Đông giáp đất rừng của Lâm trường H, phía Tây giáp đường be và đồi, phía Nam giáp đất rửng của Lâm trường H, phía Bắc giáp đường be.
Năm 1998, Nhà nước có chủ trương cho đăng ký quyền sử dụng đất, gia đình ông đã tiến hành kê khai. Ngày 18/7/1998, Uỷ ban nhân dân huyện Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M 822806 cho gia đình ông đứng tên hộ bà Phạm Thị NĐ (tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hộ gia đình ông gồm có 05 khẩu là Phạm Thị NĐ, Phan Công N, Phan Công B, Phan Công A và bà Nguyễn Thị C nhưng bà C đã chết ngày 19/9/2021) đối với thửa đất số 93, tờ bản đồ số 21, đo đạc năm 1995 diện tích 10.071m2. Nay theo kết quả xác minh thì thuộc thửa đất số 136, tờ bản đồ số 50, diện tích 10.071m2, đất tọa lạc tại thôn 01, xã K, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông.
Khoảng tháng 1, tháng 2 năm 1998, gia đình ông thuê xe san ủi bao quanh ranh giới và cải tạo đất thì vợ chồng Ông BĐ, Bà BĐ có tới tranh chấp không cho chúng tôi làm và hỏi đất của Ông BĐ, Bà BĐ tại sao lại đến san ủi đất thì ông bà đã thông báo cho họ biết là đất của gia đình ông đã được Nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Do Ông BĐ, Bà BĐ không tôn trọng pháp luật, cố ý lấn chiếm thường xuyên cản trở việc sử dụng đất của gia đình ông nên từ đầu tháng 1, tháng 2/1998 đến năm 2012, hai bên xảy ra tranh chấp dẫn tới việc canh tác, sản xuất không ổn định. Năm 2012, gia đình ông kêu người vào dọn dẹp đất thì Ông BĐ, Bà BĐ lại tiếp tục tranh chấp. Gia đình ông trình báo Uỷ ban nhân dân xã KT đã tiến hành lập biên bản xác minh và giải quyết tranh chấp, yêu cầu các bên giữ nguyên hiện trạng, phía Ông BĐ, Bà BĐ không chấp hành, năm 2013, 2014 gia đình Ông BĐ, Bà BĐ lại tiếp tục lấn chiếm trồng cao su lên đất của gia đình ông. Cây trồng trên đất hiện nay gồm khoảng 387 cây cao su, trong đó có khoảng 150 cây cao su do gia đình ông trồng từ năm 2008 và trồng dặm thêm vào các năm sau đó. Sau năm 2012 đến nay, Ông BĐ, Bà BĐ lấn chiếm đất và trồng cây cao su lấn lên số cây cao su của gia đình ông đã trồng nhưng tôi không xác định cụ thể được số lượng bao nhiêu cây cao su của gia đình ông đã trồng hiện nay còn sống, của gia đình Ông BĐ là bao nhiêu cây cao su.
Ngày 28/6/2019, Ông BĐ và Bà BĐ khởi kiện tại Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông để đòi lại diện tích 10.071m2 mà gia đình ông đã được Uỷ ban nhân dân huyện Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M 822806, Uỷ ban nhân dân huyện Đ cấp ngày 18/7/1998, thửa đất số 93, tờ bản đồ số 21. Ngày 28/9/2020, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông đã đình chỉ giải quyết vụ án vì lý do Ông BĐ, Bà BĐ rút đơn khởi kiện. Sau đó, gia đình ông đã làm đơn yêu cầu và Uỷ ban nhân dân xã KT đã hòa giải nhưng không thành.
Nhận thấy việc Ông BĐ, Bà BĐ đã lấn chiếm đất của gia đình ông và trồng một số cây cao su lên đất gia đình ông là trái pháp luật, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền sử dụng đất của gia đình ông, nay Bà NĐ khởi kiện: Buộc Ông BĐ và Bà BĐ phải trả lại cho gia đình ông diện tích đất lấn chiếm 10.071m2, thuộc thửa số 93, tờ bản đồ số 21, theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M 822806, Uỷ ban nhân dân huyện cấp cho hộ là Phạm Thị NĐ. Buộc Ông BĐ và Bà BĐ di dời vô điều kiện các cây cao su trồng bất hợp pháp và các tài sản khác trên phần diện tích đất của gia đình ông để trả lại nguyên hiện trạng diện tích như ban đầu.
Theo bị đơn ông Đặng Như BĐ và bà Nguyễn Thị BĐ trình bày:
Nguồn gốc diện tích đất của gia đình ông bà hiện nay đang sử dụng là do khai hoang từ năm 1993, diện tích đất này nằm liền kề với diện tích đất hiện nay đang tranh chấp với ông N, Bà NĐ. Thửa đất số 93, tờ bản đồ số 21, diện tích 10.071m2 (thực tế là thửa số 136, tờ bản đồ số 50) do gia đình ông khai hoang vào cuối năm 1997, khi khai hoang thì không ai tranh chấp; đầu tháng 01, tháng 02/1998, gia đình ông tiếp tục khai hoang thì ông N đến tranh chấp cản trở. Nguồn gốc đất trên là của Lâm trường H. Cuối năm 1997, gia đình ông phát dọn cây rừng, ông N tại thời điểm đó công tác tại Công an huyện Đ tới yêu cầu không được phát dọn để lại làm môi sinh, môi trường. Sau đó, ông N có đưa ông Đoàn Ngọc N công tác tại Hạt kiểm lâm, ông Phạm S công tác tại Công an huyện Đ đến lập biên bản và bản cam kết giao toàn bộ đất đã phát 0,3ha và diện tích đất rừng còn lại chiều ngang khoảng 10m, chiều dài đường be 200m cho gia đình ông quản lý và cam kết không tiếp tục lấn chiếm đất rừng nữa. Vị trí, tứ cận thửa đất gia đình ông phát dọn: Phía Nam giáp thửa đất gia đình ông đang canh tác, phía Bắc giáp đường be đất, phía Đông giáp đường be, phía Tây giáp đất bà Vũ Thị Mùi.
Sau đó, gia đình ông bà vẫn tiếp tục phát dọn trồng tỉa hoa màu. Năm 2009, gia đình ông bà có trồng 100 cây cao su; năm 2012 trồng thêm 300 cây cao su. Hiện nay số cây cao su trên đã cho thu hoạch.
Năm 2012, gia đình ông biết ông N được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên đã làm đơn nhưng không được Cơ quan nào giải quyết. Năm 2019, ông bà khởi kiện lên Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông nhưng rút đơn khởi kiện vì lý do, văn bản của Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Đ và Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đắk Nông trả lời, hồ sơ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của hộ Bà NĐ không nằm trong hồ sơ lưu trữ và thửa 93 không nằm trong tờ bản đồ số 21.
Lý do thời gian dài gia đình ông không đi đăng ký cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là do gia đình ông chưa có điều kiện và khu vực này không có ai được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Năm 1998, hộ Bà NĐ được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên diện tích đất do gia đình ông khai phá và đang trực tiếp quản lý sử dụng là không đúng, gia đình ông bà không biết, không có các hộ ký giáp ranh đất, vì không phải cấp tập trung, bản đồ giải thửa không có thửa đất số 93 cấp cho hộ Bà NĐ. Do vậy việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ Bà NĐ là không đúng.
Ngày 21/5/2021, gia đình ông bà phản tố yêu cầu Tòa án hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M 822806, Uỷ ban nhân dân huyện Đ đã cấp cho hộ bà Phạm Thị NĐ ngày 18/7/1998, tại thửa đất số 93, tờ bản đồ số 21, diện tích 10.071m2 tọa lạc tại thôn 01, xã K, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông.
Nay Bà NĐ khởi kiện yêu cầu gia đình ông bà trả lại thửa đất số 93, tờ bản đồ số 21 (nay thửa số 136, tờ bản đồ số 50) diện tích 10.071m2 tọa lạc tại thôn 01, xã K, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông thì gia đình ông không chấp nhận lý do gia đình ông là người khai hoang, canh tác và sử dụng đất ổn định từ khi khai phá cuối năm 1997 đến nay; gia đình ông là người sử dụng đất trồng cây công nghiệp lâu năm nhưng lại cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Bà NĐ. Khi gia đình ông trồng cây, Bà NĐ, ông N không đến ngăn cản, tranh chấp.
Ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Phan Công N trình bày:
Ý kiến trình bày của nguyên đơn là đúng, tôi không chấp nhận phản tố của ông Đặng Như BĐ và bà Nguyễn Thị BĐ và yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc Ông BĐ và Bà BĐ phải trả lại cho gia đình ông diện tích đất lấn chiếm 10.071m2, thuộc thửa số 93, tờ bản đồ số 21, đo đạc năm 1995 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M 822806, Uỷ ban nhân dân huyện Đ cấp cho gia đình ông đứng tên hộ là Phạm Thị NĐ. Buộc Ông BĐ và Bà BĐ di dời vô điều kiện các cây cao su trồng bất hợp pháp và các tài sản khác trên phần diện tích đất của gia đình ông để trả lại nguyên hiện trạng diện tích như ban đầu.
Ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Phan Công B, ông Phan Công A trình bày: Đối với thửa đất số 93, tờ bản đồ số 21, diện tích 10.071m2(theo kết quả xác minh là thửa đất số 136, tờ bản đồ số 50), diện tích 10.071m2, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M 822806 đứng tên hộ bà Phạm Thị NĐ, đất tọa lạc tại thôn 01, xã K, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông là do bố mẹ là ông N, Bà NĐ tạo dựng vào năm 1993, năm 1998 thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thời điểm này chúng tôi còn nhỏ không có công sức đóng góp gì, không có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gì và đây là tài sản riêng của ông N, Bà NĐ.
Ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Uỷ ban nhân dân huyện Đ và người đại diện theo uỷ quyền trình bày:
Thửa đất liên quan tới nội dung đơn phản tố của ông Đặng Như BĐ, bà Nguyễn Thị BĐ là thửa số 93, tờ bản đồ số 21, diện tích 10.071m2, mục đích sử dụng: đất cà phê. Thửa đất này được Uỷ ban nhân dân huyện Đ, tỉnh Đắk Lắk (nay tỉnh Đắk Nông) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M 822806 cho hộ bà Phạm Thị NĐ vào ngày 18/7/1998 cụ thể:
Ngày 26/02/1998, bà Phạm Thị NĐ được Uỷ ban nhân dân huyện Đ ban hành giấy xác nhận QSDĐ số: 94/XN-SDĐ tại thôn 09, xã K gồm 03 thửa với tổng diện tích 41.846m2 (trong đó thửa số 3 theo sơ đồ có diện tích 10.071m2). Ngày 10/4/1998, Bà NĐ có đơn xin đăng ký và cấp quyền sử dụng đất gửi Uỷ ban nhân dân huyện Đ đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với các thửa đất số 90, 91, 93, tờ bản đồ số 21. Nội dung đơn được Hội đồng đăng ký cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất xã K xác nhận đồng ý cấp cho Bà NĐ.
Căn cứ tờ trình của Uỷ ban nhân dân xã KT và tờ trình của Phòng đia chính huyện, Uỷ ban nhân dân huyện Đ ban hành Quyết định số 97/QĐ-UBND ngày 18-7-1998 về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 10 cá nhân (trong đó có hộ bà Phạm Thị NĐ). Liên quan tới việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M 822806 cho hộ Bà NĐ vào ngày 18-7-1998, Uỷ ban nhân dân huyện Đ có ý kiến như sau:
Uỷ ban nhân dân huyện Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 93, tờ bản đồ số 21 cho hộ bà Phạm Thị NĐ được thực hiện theo quy định của Luật đất đai năm 1993 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, theo kết quả kiểm tra của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Đ, theo Công văn số 199/CV-CNVPĐKĐĐ ngày 20-5-2020 và Công văn số 222/CV-CNVPĐKĐĐ ngày 11/8/2019, gửi cho Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông có nội dung: Qua lồng ghép bản đồ tại thửa đất số 93, tờ bản đồ số 21 thì hồ sơ lưu trữ tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Đ, tờ bản đồ số 21 không có thửa đất số 93.
Liên quan tới nội dung phản tố của Ông BĐ, Bà BĐ, trước đây Ông BĐ đã khởi kiện tại Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông nhưng do Ông BĐ đã rút đơn khởi kiện nên Tòa án đã đình chỉ giải quyết vụ án. Theo yêu cầu cung cấp thông tin, tài liệu chứng cứ của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông, Uỷ ban nhân dân huyện Đ đã ban hành các văn bản cung cấp thông tin chứng cứ gồm Công văn số 1040/UBND- NL ngày 16-8-2022 và Công văn số 1132/UBND-NL ngày 23-9-2020.
Đối với nội dung yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M 822806 cấp cho hộ bà Phạm Thị NĐ ngày 18-7-1998, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Đối với việc tranh chấp đất đai giữa các bên liên quan, Uỷ ban nhân dân huyện Đ không có ý kiến gì. Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 18/2022/DS-ST ngày 08/9/2022 và 30/9/2022, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông đã quyết định:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị NĐ, về việc yêu cầu ông Đặng Như BĐ và bà Nguyễn Thị BĐ phải trả lại diện tích đất lấn chiếm 10.071m2, thuộc thửa số 93, tờ bản đồ số 21, đo đạc năm 1995, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M 822806 (nay là thửa đất số 136, tờ bản đồ số 50, diện tích đo đạc thực tế là 9.636,6 m2), đất tọa lạc tại thôn 01, xã K, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; Uỷ ban nhân dân huyện Đ cấp ngày 18-7-1998 đứng tên hộ bà Phạm Thị NĐ.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị NĐ,về việc yêu cầu ông Đặng Như BĐ và bà Nguyễn Thị BĐ phải di dời vô điều kiện các cây cao su và các tài sản khác trên phần diện tích đất của gia đình ôngHà để trả lại nguyên hiện trạng diện tích như ban đầu.
2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Đặng Như BĐ và bà Nguyễn Thị BĐ. Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M 822806, Uỷ ban nhân dân huyện Đ cấp cho hộ bà Phạm Thị NĐ ngày 18/7/1998, thuộc thửa đất số 93, tờ bản đồ số 21, diện tích 10.071m2 (nay là thửa đất số 136, tờ bản đồ số 50, diện tích đo đạc thực tế là 9.636,6 m2), đất tọa lạc tại thôn 01, xã K, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông.
3. Kiến nghị Uỷ ban nhân dân huyện Đ, tỉnh Đắk Nông cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Đặng Như BĐ và bà Nguyễn Thị BĐ theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, chi phí tố tụng và quyền kháng cáo của đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm:
- Ngày 10/10/2022, nguyên đơn là bà Phạm Thị NĐ kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm;
- Ngày 12/10/2022, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông có Quyết định số 3540/QĐ-VKS-DS kháng nghị toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn là bà Phạm Thị NĐ (có ông Phan Công N đại diện theo ủy quyền) vẫn giữ kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm, sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn vì bản án của Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Án lệ 33/2020/AL để giải quyết vụ án là có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật, bởi lẽ án lệ nêu trên được áp dụng trong trường hợp đất không có tranh chấp, còn trong vụ án này đất đã có tranh chấp nhiều lần, không chỉ tranh chấp trên thực địa mà còn có đơn gửi đến cơ quan chức năng. Bị đơn thừa nhận việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Bà NĐ vào tháng 7/1998 là trước thời điểm tranh chấp; trình tự thủ tục cấp đất là phù hợp với quy định của pháp luật. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý yêu cầu phản tố của bị đơn là không đúng quy định vì việc cấp giấy chứng nhận cho Bà NĐ không xâm phạm quyền lợi của Ông BĐ nên Ông BĐ không có quyền khởi kiện giấy chứng nhận này.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn là Luật sư Nguyễn Thanh H và Luật sư Nguyễn Thành C thống nhất phát biểu ý kiến đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông, vì đất đang tranh chấp nên không thuộc trường hợp áp dụng Án lệ số 33/2020/AL. Về nguồn gốc đất, trước đây đất thuộc quản lý của lâm trường H, đến tháng 02/1998 Ủy ban nhân dân huyện Đ thu hồi bàn giao cho địa phương quản lý. Ủy Ban nhân dân huyện Đ cấp giấy bìa trắng cho gia đình Bà NĐ theo đơn mượn đất của gia đình Bà NĐ năm 1995, đến năm 1998 thì Bà NĐ được cấp bìa đỏ, hồ sơ cấp đất có niêm yết công khai đúng quy định. Trong hộ Bà NĐ có nhân khẩu nông nghiệp là bà C và 02 con của Bà NĐ nên về đối tượng cấp đất là đúng quy định pháp luật. Sau khi được cấp giấy chứng nhận, Bà NĐ sử dụng đất liên tục, công khai. Bị đơn thừa nhận nguồn gốc đất trước đây của lâm trường, bị đơn lấn chiếm sử dụng nên không phải là hành vi xác lập quyền sử dụng đất hợp pháp. Đối với việc bị đơn cho rằng thửa 93 không được cập nhật vào tờ 21 đã được cơ quan chức năng xác định là sai sót thủ tục hành chính, không làm thay đổi bản chất pháp lý, hiện cũng đã được cập nhật vào tờ 50 thay tờ bản đồ 21. Ngoài ra, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Bà NĐ không làm ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của bị đơn nên bị đơn không có quyền khởi kiện giấy chứng nhận này. Đối với cây trồng trên đất đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định pháp luật.
Bị đơn là ông Đặng Như BĐ và bà Nguyễn Thị BĐ thống nhất phát biểu ý kiến không đồng ý kháng cáo của nguyên đơn và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông, yêu cầu Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm vì nguồn gốc đất trước đây do Lâm trường H quản lý nhưng sau đó không sử dụng nữa nên bị đơn khai phá sử dụng.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn là Luật sư Phạm Xuân T phát biểu ý kiến đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông và giữ nguyên bản án sơ thẩm vì lời khai của nguyên đơn có trong hồ sơ vụ án thể hiện nguyên đơn bắt đầu khai phá đất từ 1993 đến năm 1998 thì được cấp quyền sử dụng. Tuy nhiên, việc cấp đất cho nguyên đơn có những vi phạm như cấp không đúng đối tượng do hộ gia đình Bà NĐ không có nhân khẩu nông nghiệp nên không thuộc trường hợp được cấp đất theo Điều 6, 7, Điều 8 Nghị định 64/1993/NĐ-CP. Mặt khác, lâm trường H giao đất cho Bà NĐ sản xuất theo đơn mượn đất của Bà NĐ nhưng việc giao đất không có đóng dấu, chỉ có bút phê; lâm trường cũng không có chức năng cho người dân mượn đất sản xuất nên việc lâm trường giao đất cho Bà NĐ là không đúng quy định. Các cơ quan chức năng đã xác định việc cấp giấy chứng nhận cho Bà NĐ không có hồ sơ gốc nên không thể đánh giá trình tự cấp giấy chứng nhận cho nguyên đơn nhưng chiếu theo phân tích trên thì việc cấp đất cho Bà NĐ là sai quy định. Ông BĐ Bà NĐ cũng không ký bất cứ biên bản giáp ranh nào để cấp đất cho Bà NĐ nên thủ tục cấp giấy chứng nhận cho Bà NĐ cũng là không đúng. Bà NĐ được cấp đất từ 1998 nhưng không sản xuất, canh tác đất nên thuộc trường hợp bị thu hồi theo khoản 3 Điều 26 Luật đất đai 1993. Ngoài ra, nguyên đơn cho rằng có trồng cây trên đất nhưng biên bản thẩm định tại chỗ của Tòa án cấp sơ thẩm thể hiện cây trồng là của bị đơn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:
Về tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử phúc thẩm thực hiện đúng quy định pháp luật tố tụng dân sự; những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật.
Về nội dung: Hồ sơ vụ án thể hiện, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Bà NĐ đảm bảo đúng vị trí, diện tích tranh chấp. Kháng cáo của nguyên đơn và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông là có căn cứ chấp nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của Bà NĐ và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông, sửa bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Tòa án triệu tập hợp lệ, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Phan Công A, Phan Công B và Ủy ban nhân dân huyện Đ, đều xin vắng mặt. Căn cứ Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành phiên tòa phúc thẩm xét xử vụ án vắng mặt những đương sự này.
[2] Hồ sơ vụ án thể hiện, ngày 14/02/1998, Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk có Quyết định số 234/QĐ-UB về việc thu hồi 5.670 ha đất của Lâm trường H giao về cho địa phương quản lý, trong đó có Tiểu khu 975 thuộc địa bàn xã K (cũ) bị thu hồi 340ha. Biên bản xác minh hiện trạng giao đất lâm nghiệp do Lâm trường H phối hợp với Hạt kiểm lâm huyện và Uỷ ban nhân dân Kiến Đức (cũ) thực hiện ngày 28/8/1996 theo đơn xin cấp đất của Bà NĐ, thể hiện khu vực đất liên cơ quan xác minh để giao cho Bà NĐ thuộc tiểu khu 975. Phù hợp với lời khai của người làm chứng ông Phạm Văn Tẹo (là Phó Giám đốc Lâm trường H) có nội dung: Diện tích đất Bà NĐ xin giao là khoảng 45.000 m2 thuộc tiểu khu 975, do Lâm trường H quản lý. Phần đất này nằm hai bên đường be đi Dốc Cao, nay là đường nhựa liên xã đi Đạo Nghĩa. Hiện trạng trên đất lúc này là đất trống, đồi trọc chỉ có lác đác có một số cây bụi nhỏ và lồ ô. Sau khi đối chiếu các tài liệu do Bà NĐ cung cấp, ông Tẹo xác định thửa đất 136, tờ bản đồ 50, diện tích 10.071m2 tọa lạc tại thôn 1, xã KT (hiện đang tranh chấp) là phần đất trước đây ông đã xác minh theo đơn xin cấp đất của Bà NĐ năm 1995. Như vậy, lời trình bày của nguyên đơn về nguồn gốc phần đất tranh chấp là do Lâm trường H quản lý là có căn cứ.
Bị đơn cho rằng nguồn gốc đất tranh chấp là do bị đơn khai phá năm 1997, nhưng ngoài lời trình bày bị đơn không có chứng cứ chứng minh và khai nhận này cũng không được nguyên đơn thừa nhận. Trong khi đó, theo xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã K (cũ) và Lâm trường H thì nguyên đơn đã quản lý sử dụng đất từ thời điểm năm 1995, 1996. Do vậy, bản án của Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận lời trình bày của bị đơn về nguồn gốc đất là không có cơ sở.
[3] Tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện, hồ sơ đăng ký quyền sử dụng đất của Bà NĐ gồm: Đơn xin đăng ký và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 10/7/1998; Tờ trình số 38/TT-ĐC ngày 14/7/1998 của Phòng địa chính huyện về việc phê duyệt cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Tờ trình số 04/TT-UB ngày 10/7/1998 của Uỷ ban nhân dân xã K về phê duyệt cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Danh sách các tổ chức và cá nhân được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Quyết định số 58/QĐ/UB ngày 18/7/1998 về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Sổ địa chính theo Bản đồ đo đạc năm 1995.
Bản án của Tòa án cấp sơ thẩm nhận định cho rằng thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Bà NĐ đã vi phạm phần tiểu mục I.2 và tiểu mục I.2.4 Mục I của Thông tư 346/1998 ngày 16/3/1998 của Tổng cục địa chính khi không công bố công khai hồ sơ xét duyệt. Tuy nhiên, theo danh sách các tổ chức và cá nhân được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Quyết định số 58/QĐ/UB ngày 18/7/1998 thì trong đợt xét duyệt cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này gồm có 10 hộ gia đình, trong đó có hộ Bà NĐ. Do vậy, nhận định cho rằng Uỷ ban nhân dân huyện Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không đúng trình tự, thủ tục là không có căn cứ.
[4] Theo nội dung đơn xin đăng ký và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 10/4/1998, Bà NĐ khai đang là “Giáo viên”; ông N là “Cán bộ công an huyện”. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M 822806 ngày 18/7/1998 Uỷ ban nhân dân huyện Đ là cấp cho hộ bà Phạm Thị NĐ. Thời điểm được cấp giấy thì hộ Bà NĐ gồm 05 người gồm Phạm Thị NĐ, Phan Công N, Phan Công B, Phan Công A và Nguyễn Thị C. Bản án của Tòa án cấp sơ thẩm chỉ xem xét việc Bà NĐ, ông N không có sản xuất nông nghiệp (do là công chức, viên chức) tại thời điểm được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng không xét đến các thành viên còn lại trong hộ Bà NĐ (bà C và 02 con Bà NĐ) để nhận định cho rằng hộ Bà NĐ không có sản xuất nông nghiệp, nên không thuộc đối tượng được cấp quyền sử dụng đất nông nghiệp là chưa đủ căn cứ.
[5] Đối với việc thửa 93 không có trong tờ bản đồ số 21 theo kết quả kiểm tra của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Đ nhưng có thể hiện trong sổ địa chính, theo quy định của Luật đất đai thì sổ địa chính là một trong các giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất. Mặt khác, tại Văn bản ngày 03/8/2020, Uỷ ban nhân dân huyện Đ đã xác định: “Việc không thể hiện thửa đất số 93 trên tờ bản đồ số 21 là do sai sót của cán bộ địa chính tại thời điểm đăng ký xét cấp không cập nhật chỉnh lý vào bản đồ”. Do vậy, có cơ sở xác định đây là thiếu sót của cán bộ địa chính, không liên quan, ảnh hưởng đến việc chứng minh quyền sử dụng đất của Bà NĐ, ông N. Hơn nữa, qua lồng ghép sơ đồ địa chính đo đạc năm 2011 thì thửa số 3 thuộc thửa 136 tờ bản đồ số 50 đúng là vị trí các bên đang tranh chấp.
[6] Theo lời trình bày của những người làm chứng là ông Phạm S, ông Đoàn Ngọc N thì ngày 27/02/1998 Đoàn kiểm tra gồm Công an, Hạt kiểm lâm huyện và công ty H đã lập biên bản về việc không cho Ông BĐ được lấn chiếm phá rừng tại tiểu khu 975. Trước đó, ngày 26/02/1998, Uỷ ban nhân dân huyện Đ cấp giấy xác nhận quyền sử dụng đất số 94/XN-SDĐ cho gia đình Bà NĐ. Vì vậy, không có căn cứ để xác định thời điểm gia đình Bà NĐ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phần đất đang có tranh chấp.
[7] Theo nhận định từ mục [2] – [6] thì việc Uỷ ban nhân dân huyện Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 10.071m2, thửa đất số 93, tờ bản đồ số 21 cho hộ Bà NĐ là đúng quy định pháp luật.
[8] Về quá trình sử dụng đất:
Lời khai của Bà NĐ, ông N thể hiện khoảng tháng 01/1998 và tháng 02/1998, gia đình ông bà thuê xe san ủi bao quanh ranh giới và cải tạo đất thì vợ chồng Ông BĐ, Bà BĐ có tới tranh chấp. Tại các biên bản ghi lời khai ngày 27/11/2019 và 18/9/2019 Ông BĐ Bà BĐ đều khai thời điểm năm 1998 ông N có cho xe vào ủi đất và 02 bên có xảy ra tranh chấp. Hồ sơ vụ án thể hiện năm 2019 Ông BĐ, Bà BĐ đã khởi kiện tranh chấp quyền sử dụng đất đối với diện tích đất trên tại Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông, nhưng sau đó đã rút đơn khởi kiện. Trong đơn khởi kiện bổ sung Ông BĐ có nêu: “…Ông Phan Công N chỉ đạo xe máy ủi, ủi dọc đường be và chỉ đạo nhiều người phát dọn toàn bộ diện tích đất trên…”. Về tài sản trên đất, Ông BĐ và Bà BĐ xác định: Tài sản trên đất tranh chấp gồm có 395 cây cao su, trong đó có 51 cây trồng năm 2009, 336 cây trồng năm 2012, 08 cây trồng 2017; 03 cây gỗ chò sót 40 năm tuổi; 01 cây bơ trồng năm 2015; 01 bụi chuối trồng năm 2000; 01 cây điều. Ông BĐ, Bà BĐ khai do gia đình trồng là có căn cứ phù hợp với thời điểm khai hoang cuối năm 1997, đầu năm 1998. ông N xác định trên đất tranh chấp có tổng cộng 412 cây cao su, trong đó có 09 cây trồng năm 2009, còn lại trồng năm 2014 trong đó có một số cây trồng năm 2012 (100 cây) và năm 2013 trồng 100 cây. Từ lời khai nhận trên của các bên đương sự, có cơ sở xác định Bà NĐ, ông N có sử dụng đất nên đã có phát sinh tranh chấp với bị đơn.
[9] Nội dung Án lệ số 33/2020/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 05/02/2020 là trường hợp “Cá nhân được Nhà nước cấp đất nhưng không sử dụng mà để người khác quản lý, sử dụng ổn định, lâu dài từ khi được giao đất. Trong quá trình sử dụng đất, người này đã tôn tạo đất, xây dựng nhà ở ổn định, đăng ký kê khai quyền sử dụng đất mà người được cấp đất không có ý kiến gì”, thì người đang sử dụng đất được công nhận quyền sử dụng đất.
[10] Đối chiếu với phân tích tại mục [8], việc bản án của Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Án lệ số 33/2020/AL để giải quyết vụ án là không phù hợp.
[11] Như vậy, căn cứ vào nguồn gốc đất và quá trình sử dụng đất thì yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ; yêu cầu phản tố của bị đơn không không có cơ sở nên không được chấp nhận.
[12] Tại biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 18/01/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông thể hiện: Phần tài sản trên đất do Ông BĐ Bà BĐ chỉ ranh gồm có: 395 cây cao su, trong đó có 51 cây trồng năm 2009, 336 cây trồng năm 2012, 08 cây trồng 2017; 03 cây gỗ chò sót 40 năm tuổi; 01 cây bơ trồng năm 2015; 01 bụi chuối trồng năm 2000; 01 cây điều. Theo Chứng thư thẩm định giá số 148/2022/CT-BTA ngày 27/7/2022 của Công ty TNHH Thẩm định giá và đo đạc địa chính BTA Việt Nam xác định tổng giá trị cây trồng trên đất do Ông BĐ chỉ ranh là 110.101.110 đồng.
Việc Ông BĐ, Bà BĐ trồng cây trên thửa đất nhưng nguyên đơn không ngăn cản. Hiện nay cây trồng đã lớn không thể di dời nên buộc nguyên đơn bồi thường giá trị cây trồng cho bị đơn. Sau khi bồi thường xong thì Bà NĐ được quyền sử dụng số cây trồng này. Đối với yêu cầu chặt bỏ hoặc thanh lý toàn bộ cây cao su là không phù hợp với nhận định trên nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.
[13] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy, bản án của Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn là chưa phù hợp nên chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn, chấp nhận một phần kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông, sửa bản án sơ thẩm theo hướng phân tích trên như đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa là có cơ sở chấp nhận một phần.
[14] Án phí và chi phí tố tụng:
[14.1] Về chi phí đo đạc xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản tổng cộng số tiền là 22.700.000 đồng. Do yêu cầu khởi kiện được chấp nhận nên Bà NĐ không phải chịu; Ông BĐ, Bà BĐ phải chịu. Bà NĐ đã nộp tạm ứng số tiền 22.700.000 đồng, nên Ông BĐ Bà BĐ có nghĩa vụ trả lại cho Bà NĐ số tiền này.
[14.2] Án phí dân sự sơ thẩm: Bà NĐ không phải chịu án; Bà BĐ phải chịu; Ông BĐ sinh năm 1962 là người cao tuổi nên được miễn, theo quy định của pháp luật về án phí, lệ phí Tòa án.
[14.3] Án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận nên người kháng cáo là bà Phạm Thị NĐ không phải chịu.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 2 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự, Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn là bà Phạm Thị NĐ; Chấp nhận một phần Quyết định kháng nghị số 3540/QĐ-VKS-DS ngày 12/10/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông;
Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 18/2022/DS-ST ngày 08/9/2022 và 30/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông.
Áp dụng vào khoản 1 Điều 30, khoản 4 Điều 32 của Luật Tố tụng hành chính; khoản 3 Điều 155 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị NĐ:
Buộc ông Đặng Như BĐ và bà Nguyễn Thị BĐ phải trả lại diện tích đất lấn chiếm 10.071m2, thuộc thửa số 93, tờ bản đồ số 21 (theo đo đạc năm 1995) (nay là thửa đất số 136, tờ bản đồ số 50, diện tích đo đạc thực tế là 9.636,6m2), đất tọa lạc tại thôn 01, xã K, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M 822806 do Uỷ ban nhân dân huyện Đ cấp ngày 18-7- 1998 đứng tên hộ bà Phạm Thị NĐ.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị NĐ về việc yêu cầu ông Đặng Như BĐ và bà Nguyễn Thị BĐ phải di dời vô điều kiện các cây cao su và các tài sản khác trên phần diện tích đất của gia đình Bà NĐ để trả lại nguyên hiện trạng diện tích như ban đầu.
3. Buộc nguyên đơn bà Phạm Thị NĐ bồi thường cho vợ chồng ông Đặng Như BĐ, bà Nguyễn Thị BĐ giá trị cây trồng trên đất (do Ông BĐ chỉ ranh theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 18/01/2022) là 110.101.110 đồng.
Sau khi bồi thường xong giá trị cây trồng cho ông Đặng Như BĐ, bà Nguyễn Thị BĐ thì bà Phạm Thị NĐ được quyền sử dụng (định đoạt) số cây trồng này (do Ông BĐ chỉ ranh theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 18/01/2022).
Trường hợp trên thửa đất 93, tờ bản đồ 21, tại thôn 01, xã K, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông của Bà NĐ có xây dựng công trình, trồng cây, hay tài sản khác do Ông BĐ, Bà BĐ tạo lập sau ngày xem xét, thẩm định tại chỗ (ngày 18/01/2022) thì buộc Ông BĐ, Bà BĐ tự tháo dỡ, di dời những tài sản này.
Trường hợp Ông BĐ, Bà BĐ không tự nguyện tháo dỡ, di dời thì Cơ quan Thi hành dân sự tiến hành thi hành án và chi phí thi hành án do Ông BĐ, Bà BĐ phải chịu.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án, theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
4. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Đặng Như BĐ và bà Nguyễn Thị BĐ về việc hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M 822806, Uỷ ban nhân dân huyện Đ cấp cho hộ bà Phạm Thị NĐ ngày 18/7/1998, thuộc thửa đất số 93, tờ bản đồ số 21, diện tích 10.071m2 (nay là thửa đất số 136, tờ bản đồ số 50, diện tích đo đạc thực tế là 9.636,6 m2), đất tọa lạc tại thôn 01, xã K, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông.
5. Về chi phí tố tụng: Chi phí đo đạc, xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản là 22.700.000 đồng: ông Đặng Như BĐ, bà Nguyễn Thị BĐ phải chịu. Bà Phạm Thị NĐ đã nộp tạm ứng số tiền này, nên ông Đặng Như BĐ, bà Nguyễn Thị BĐ có nghĩa vụ trả lại cho bà Phạm Thị NĐ số tiền 22.700.000 đồng (hai mươi hai triệu bảy trăm nghìn đồng).
6. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Bà Phạm Thị NĐ không phải chịu. Hoàn trả cho bà Phạm Thị NĐ 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004548 ngày 11/01/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Đắk Nông.
- Ông Đặng Như BĐ được miễn. Hoàn trả 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí mà ông Đặng Như BĐ đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004787 ngày 31/5/2021, của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Đắk Nông.
- Bà Nguyễn Thị BĐ phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng.
7. Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Phạm Thị NĐ không phải chịu. Hoàn trả cho bà Phạm Thị NĐ 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0000176 ngày 14/10/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đắk Nông.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 424/2023/DS-PT về tranh chấp quyền sử dụng đất; yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Số hiệu: | 424/2023/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 30/06/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về