Bản án 423/2019/HNGĐ-ST ngày 24/10/2019 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 423/2019/HNGĐ-ST NGÀY 24/10/2019 VỀ XIN LY HÔN

Trong ngày 24 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện A xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 248/2019/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 6 năm 2019 về việc “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 477/2019/QĐST-HNGĐ ngày 23 tháng 9 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1982; nơi cư trú: tổ 03, ấp P, xã Đ, huyện A, tỉnh An Giang.

Bị đơn: Bà Dương Thị Còn E, sinh năm 1979; nơi cư trú: tổ 03, ấp P, xã Đ, huyện A, tỉnh An Giang.

(Ông Đ có mặt, riêng bà E vắng mặt không lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện cùng với các tài liệu và chứng cứ kèm theo và quá trình tố tụng tại Tòa án, ông Nguyễn Văn Đ trình bày: Ông Nguyễn Văn Đ và bà Dương Thị Còn E tự tìm hiểu yêu thương nhau đi đến hôn nhân vào năm 2006, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ năm 2009. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc. Đến năm 2018 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn và thường xuyên cãi vã nhau, bà E bỏ nhà đi và đã ly thân cho đến nay. Nay, tình cảm vợ chồng không còn nên ông Đ yêu cầu được ly hôn với bà Dương Thị Còn E.

Về con chung: Trong thời gian chung sống, Ông và bà E có 02 con chung tên Nguyễn Thị Ngọc T, sinh ngày 19/10/2007 và Nguyễn Văn Tấn Đ, sinh ngày 01/03/2010. Ông Đ đang nuôi dạy 02 con chung, khi ly hôn ông Đ yêu cầu được tiếp tục nuôi dạy con chung. Không yêu cầu bà E cấp dưỡng nuôi dạy con chung.

Về quan hệ tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết Về quan hệ nợ chung: Không có.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã mở phiên họp để các đương sự thực hiện quyền tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định nhưng bà Dương Thị Còn E vẫn không có mặt theo văn bản triệu tập của Tòa án nên Tòa án ghi nhận sự vắng mặt bà E và không tiến hành hòa giải được.

Chứng cứ thu thập được: Tại biên bản làm việc ngày 21/8/2019 được bà Nguyễn Thị M cho biết: Bà M là mẹ ruột của ông Đ, bà Còn E là vợ của Đ. Ông Đ và Còn E tự tìm hiểu và sống chung như vợ chồng, gia đình hai bên có tổ chức đám cưới. Hiện nay ông Đ và bà E đã không còn sống chung khoảng 01 năm. Việc mâu thuẫn giữa ông Đ và bà Còn E gia đình hai bên có hàn gắn nhưng không thành. Ngoài ra, bà M còn cho biết con chung của Đ và Còn E hiện nay do ông Đ nuôi dạy.

Tại biên bản xác minh ngày 21/8/2019 được ông Dương Hoài P – Phó trưởng Công an xã Đ cho biết: Ông Nguyễn Văn Đ và bà Dương Thị Còn E có đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa phương.

Tại Phiên Tòa ông Đ bảo lưu ý kiến. Riêng bà Còn E đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử, xét xử vắng mặt bà Còn E theo thủ tục chung.

Quan điểm Kiểm sát viên về việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán trong việc ghi lời khai, hòa giải, xác định quan hệ tranh chấp, tư cách người tham gia tố tụng… là hoàn toàn phù hợp với pháp luật tố tụng dân sự. Đối với thành phần Hội đồng xét xử không có thành viên nào thuộc đối tượng phải thay đổi, việc xét hỏi tại phiên tòa cũng như thủ tục xét xử vắng mặt được đảm bảo.

Về nội dung vụ án Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử:

Về hôn nhân: Bà Dương Thị Còn E, ông Nguyễn Văn Đ có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ vào ngày 18/11/2009. Xét đây là hôn nhân hợp pháp. Tuy nhiên, việc mâu thuẫn giữa bà E và ông Đ không thể hàn gắn nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của ông Đ được ly hôn với bà E.

Về con chung: Có 02 con chung Nguyễn Thị Ngọc T, sinh ngày 19/10/2007 và Nguyễn Văn Tấn Đ, sinh ngày 01/03/2010. Ông Đ đang nuôi dạy 02 con chung T và Đ nên khi ly hôn ông Đ yêu cầu được tiếp tục nuôi dạy con chung. Không yêu cầu bà E cấp dưỡng nuôi dạy con chung. Xét thấy con chung hiện do ông Đ nuôi dạy. Do đó, để đảm bảo cho sự phát triển tâm sinh lý bình thường và điều kiện sống của con chung nên đề nghị Hội đồng xét xử cho ông Đ tiếp tục nuôi con chung là phù hợp tại các Điều 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Theo quy định của pháp luật, bên không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Qua hòa giải và tại phiên tòa, bà Còn E vắng mặt nên chưa xác định bà E có yêu cầu về việc nuôi dạy con chung hay không, nếu sau này bà E có yêu cầu thì bà E sẽ khởi kiện bằng một vụ kiện khác.

Về tài sản chung, nợ chung: Ông Đ xác định tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nếu sau này bà E có yêu cầu sẽ được giải quyết bằng một vụ kiện khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, quan điểm của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Ông Nguyễn Văn Đ có đơn yêu cầu Tòa án nhân dân huyện A giải quyết về việc hôn nhân, nuôi con chung với bà Dương Thị Còn E, đồng thời bị đơn cư trú trên địa bàn huyện A. Căn cứ quy định tại Khoản 1 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 35 và điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện A.

[1.2] Về việc vắng mặt của đương sự tại phiên tòa: Bà Dương Thị Còn E được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà Em theo khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về hôn nhân: Căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của các đương sự trong quá trình tố tụng thể hiện: Quan hệ hôn nhân giữa bà Còn E, ông Đ tự tìm hiểu, không tổ chức đám cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ vào ngày 18/11/2009 theo quy định, được xem là hôn nhân hợp pháp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nên thụ lý, giải quyết theo Điều 53 của Luật hôn nhân và gia đình.

Xét yêu cầu của ông Đ xin ly hôn với bà E. Hội đồng xét xử xét thấy thời gian ly thân giữa ông Đ và bà Còn E đã lâu nhưng cả hai không có giải pháp hàn gắn. Trong thời gian ly thân gia đình hai bên có đứng ra hòa giải nhưng không thành. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn của ông Đ và bà Còn E đã đến mức trầm trọng nên Hội đồng xét xử xét chấp nhận ly hôn theo yêu cầu của ông Đ theo quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về nuôi dưỡng con chung và nghĩa vụ cấp dưỡng: Ông Đ và bà Còn E có 02 con chung tên Nguyễn Thị Ngọc T, sinh ngày 19/10/2007 và Nguyễn Văn Tấn Đ, sinh ngày 01/03/2010. Ông Đ đang nuôi dạy 02 con chung nên khi ly hôn ông Đ yêu cầu được tiếp tục nuôi dạy con chung, không yêu cầu bà Còn E cấp dưỡng nuôi dạy con chung. Theo lời trình bày ông Đ, từ khi ly thân đến nay cháu T và cháu Đ sống chung với ông Đ lời trình bày của ông Đ phù hợp với lời trình bày của bà M (mẹ ông Đ). Do đó, để đảm bảo cho sự phát triển tâm sinh lý bình thường và điều kiện sống của con chung, Hội đồng xét xử nghĩ nên giao cháu T và cháu Đ ông Đ tiếp tục nuôi dưỡng.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng: Do ông Đ không yêu cầu nên không xem xét.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Ông Đ khai tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết. Trường hợp sau này bà E có yêu cầu chia tài sản chung thì có quyền khởi kiện trong một vụ án khác.

[3] Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 thì ông Đàng phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình.

Bà Dương Thị Còn E không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình; các Điều 147, 227, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điểm b, khoản 6, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Xử Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của ông Nguyễn Văn Đ.

Về hôn nhân: Ông Nguyễn Văn Đ được ly hôn với bà Dương Thị Còn E.

Về con chung: Ông Nguyễn Văn Đ được tiếp tục nuôi dạy 02 con chung tên:

1./ Nguyễn Thị Ngọc T, sinh ngày 19/10/2007

2./ Nguyễn Văn Tấn Đ, sinh ngày 01/03/2010.

Bà Dương Thị Còn E không phải cấp dưỡng nuôi dạy con chung.

Ông Nguyễn Văn Đ cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở bà Dương Thị Còn E trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

Về án phí: Ông Nguyễn Văn Đ phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm, chuyển từ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0011387 ngày 25/6/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện A. (Ông Đ đã nộp đủ).

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc vắng mặt khi tuyên án, thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ khi được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./

(Giấy chứng nhận kết hôn số 186/HT ngày 18/11/2009 do Ủy ban nhân dân xã Đ cấp không còn giá trị pháp luật kể từ ngày án có hiệu lực theo quy định pháp luật).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 423/2019/HNGĐ-ST ngày 24/10/2019 về xin ly hôn

Số hiệu:423/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;