Bản án 42/2023/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 42/2023/HS-ST NGÀY 19/12/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 19 tháng 12 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 50/2023/TLST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2023/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Văn T. Tên gọi khác: Không có. Sinh năm 1995 Tại: Điện Biên Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Bản Th, xã N, huyện Đ, tỉnh Điện Biên.

Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lò Văn P và con bà Cà Thị B: Vợ; con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Chưa bị kết án; chưa bị xử lý hành chính. Bị cáo bị bắt tạm giữ, giam từ ngày 13/9/2023 đến ngày xét xử. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

* Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị P - Là luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 13/9/2023, Lò Văn T đi bộ từ nhà đến bản Noong Luống, xã Noong Luống, huyện Điện Biên, T vào nhà của một người phụ nữ tên Lay, dân tộc Thái và hỏi mua được 01 gói Heroine với giá 300.000 đồng. Mua xong T cất ma túy vào trong túi quần đang mặc rồi đi về. Hồi 12 giờ 10 phút cùng ngày, khi T đang đi trên đường thuộc bản Co Luống, xã Noong Luống, huyện Điện Biên thì bị tổ công tác Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy, Công an tỉnh Điện Biên phối hợp với Công an xã Noong Luống, huyện Điện Biên phát hiện, bắt quả tang, thu giữ trong túi quần bên phải của T 01 gói nilon màu xanh bên trong chứa Heroine.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng ngày 14/9/2023 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Điện Biên và bản Kết luận giám định số 1390/KL - KTHS ngày 15/9/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Khối lượng vật chứng thu giữ của Lò Văn T là 0,4 gam. Mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Lò Văn T gửi giám định là chất ma tuý: Loại Heroine.

Tại bản Cáo trạng số 258/CT-VKHSĐB ngày 28/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên đã truy tố bị cáo Lò Văn T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ Luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lò Văn T từ 01 năm 04 tháng đến 01 năm 07 tháng tù. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS. Tịch thu tiêu hủy 0,4 gam Heroine (Gửi toàn bộ giám định và hoàn lại 0,3 gam sau khi giám định). Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Đề nghị HĐXX miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Tại phiên tòa, bà Nguyễn Thị P bào chữa cho bị cáo hoàn toàn nhất trí với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên và Quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án nhân dân huyện Điện Biên về việc truy tố và xét xử bị cáo về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Không khiếu nại gì về các quyết định tố tụng; hành vi tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng; người tiến hành tố tụng. Người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử xem xét về khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ cũng như nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS. Đề nghị HĐXX áp dụng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị. Đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo và miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Kiểm sát viên đối đáp: Về mức hình phạt, Kiểm sát viên đã xem xét về khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để đề nghị HĐXX áp dụng. Vì vậy Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quan điểm, đề nghị HĐXX xem xét và quyết định.

Viện kiểm sát, người bào chữa không tranh luận gì thêm.

Bị cáo không có ý kiến gì tranh luận, không bổ sung gì vào lời bào chữa của người bào chữa. Hoàn toàn nhất trí với bản Cáo trạng và luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Hồi 11 giờ ngày 13/9/2023, tại khu vực bản Co Luống, xã Noong Luống, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên tổ công tác phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý Công an tỉnh Điện Biên phối hợp với Công an xã Noong Luống, huyện Điện Biên phát hiện bắt quả tang, thu giữ trong túi quần bên phải của bị cáo Lò Văn T đang mặc 01 gói nilon màu xanh bên trong chứa các cục chất bột màu trắng nghi Heroine. Qua cân xác định khối lượng và Kết luận giám định đã xác định, vật chứng thu giữ của bị cáo là Heroine có khối lượng 0,4 gam. Bị cáo khai mục đích cất giấu Heroine là để sử dụng cho bản thân mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong vật chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.

Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Bị cáo thực hiện tội phạm do lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo đơn giản, chỉ do nghiện ma túy nên đã đi mua ma túy để sử dụng cho bản thân mà không có mục đích nào khác. Tuy nhiên, hành vi đó của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, xâm phạm đến trật tự trị an, an toàn trong xã hội.

[3] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo sinh ra và lớn lên tại Điện Biên, học hết lớp 6 thì nghỉ học. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình và có thái độ ăn năn hối cải nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[4] Sau khi xem xét về hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn theo quy định tại Điều 38 Bộ luật hình sự để bị cáo có điều kiện cai nghiện đồng thời giáo dục, cải tạo bị cáo thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát, đề nghị áp dụng mức hình phạt tù từ 01 năm 04 tháng đến 01 năm 07 tháng tù. Người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng mức hình phạt dưới mức thấp nhất mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị. Hội đồng xét thấy, khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ là 0,4 gam, bị cáo có 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 điều 51/BLHS nên áp dụng mức hình phạt thấp hơn mức hình phạt thấp nhất mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp với tính chất mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo cũng như thể hiện sự khoan hồng của pháp luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của người bào chữa cho bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Xong xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, thu nhập chủ yếu từ làm ruộng nên không có khả năng thi hành. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Điện Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[7] Vật chứng: Gồm 0,4 gam Heroine (Gửi toàn bộ giám định và hoàn lại 0,3 gam sau khi giám định) là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành nên cần bị tịch thu tiêu huỷ theo điểm c khoản 1 Điều 47/BLHS; Điểm a Khoản 2 Điều 106/BLTTHS.

[8] Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136/BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST. Tuy nhiên bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại xã có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, tại phiên tòa bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử miễn án phí HSST. Vì vậy theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

[9] Về vấn đề khác: Trong quá trình điều tra bị cáo đã khai nguồn gốc số ma túy bị cáo mua của một người phụ nữ tên Lay, dân tộc thái khoảng 70 tuổi, nhà ở bản Noong Luống, xã Noong Luống, huyện Điện Biên. Qua xác minh tại địa bàn, cơ quan Cảnh sát điều tra đã xác định tại địa chỉ trên có một người phụ nữ tên Lò Thị Siên, sinh năm 1957 thường được gọi là Lay. Qua điều tra, Lò Thị Siên không có mặt tại địa bàn, đi đâu làm gì không báo cho ai biết. Do vậy cơ quan điều tra tách ra để điều tra sau. Vì vậy HĐXX không xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

1. Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý"

2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Lò Văn T 01 (Một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ (Ngày 13/9/2023).

3. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47/Bộ luật hình sự; Điểm a Khoản 2 Điều 106/Bộ luật tố tụng hình sự - Tịch thu tiêu huỷ 0,4 gam Heroine (Gửi toàn bộ giám định và hoàn lại 0,3 gam sau khi giám định) Vật chứng đã được Công an huyện Điện Biên bàn giao sang Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên theo biên bản bàn giao vật chứng giữa Công an huyện Điện Biên và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên ngày 28/11/2023.

4. Án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331; Điều 333 Bộ Luật tố tụng hình sự. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 19/12/2023). 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 42/2023/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:42/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;