Bản án 42/2022/HNGĐ-ST về ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỘC NINH, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 42/2022/HNGĐ-ST NGÀY 20/07/2022 VỀ LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 20 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 64/2022/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 4 năm 2022 về việc “Ly hôn và nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2022/QĐXX-HNGĐ ngày 14 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 24/QĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Bà Bùi Thị M, sinh năm: 1991 (có mặt)

Địa chỉ: ấp 5, xã T, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước.

* Bị đơn: Ông Hà Xuân L, sinh năm: 1986 (Vắng mặt không có lý do)

Địa chỉ: ấp 5, xã T, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ngày 10/3/2022, bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn bà Bùi Thị M trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà M và ông Hà Xuân L tự nguyện sống chung và có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước vào năm 2011.

Trước khi kết hôn vợ chồng có tìm hiểu nhau trong thời gian khoảng 01 năm. Sau khi kết hôn vợ chồng sống tự lập tại ấp 5, xã T, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước.

Vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng do ông L có mối quan hệ bất chính với người phụ nữ khác và đã có con riêng nên cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Nay nhận thấy vợ chồng không thể quay lại sống chung với nhau được nữa nên bà M xin được ly hôn với ông L.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Hà Thị Mỹ T, sinh ngày 19/01/2012 và Hà Công Anh T1, sinh ngày 23/4/2013. Con chung hiện nay đang sống cùng ông L. Khi ly hôn, bà M đồng ý giao con chung cho ông L tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung và chỉ yêu cầu ông L cho bà M được thăm nom, chăm sóc con bình thường và ông L không nhận ai làm con nuôi.

Về tài sản chung: Bà M khẳng định bà và ông L không có tài sản chung nên không yêu cầu giải quyết.

Về nợ chung: Bà M khẳng định bà và ông L không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn ông Hà Xuân L vắng mặt Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn được Tòa án tiến hành tống đạt thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác trong theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, ông L không có văn bản trình bày ý kiến, không giao nộp tài liệu chứng cứ và không có mặt theo các thông báo, giấy triệu tập của Tòa án.

Căn cứ biên bản xác minh ngày 18/4/2022 của Tòa án xác minh tại Công an xã T xác định: ông Hà Xuân L có đăng ký hộ khẩu tại ấp 5, xã T, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước, hiện nay vẫn còn sinh sống tại địa phương.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Ninh phát biểu ý kiến:

- Việc chấp hành pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc xác định quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết, thực hiện thủ tục cấp tống đạt các văn bản tố tụng, thu thập chứng cứ, mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát, thành phần tham gia xét xử được thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Viện Kiểm sát nhân dân huyện Lộc Ninh không có kiến nghị gì về tố tụng.

- Về nội dung: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Bùi Thị M.

+ Về quan hệ hôn nhân: Cho bà Bùi Thị M được ly hôn với ông Hà Xuân L.

+ Về con chung: Giao cho ông Hà Xuân L trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục 2 con chung tên Hà Thị Mỹ T, sinh ngày 19/01/2012, Hà Công Anh T1, sinh ngày 23/4/2013.

+ Về tài sản chung: Bà M khẳng định không có nên không xem xét.

+ Về nợ chung: Bà M khẳng định không có nợ chung nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Nguyên đơn bà Bùi Thị M có đơn khởi kiện ly hôn với ông Hà Xuân L tại Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh để giải quyết theo thẩm quyền. Bà M và ông L có hộ khẩu và sinh sống tại huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Căn cứ Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung vụ án:

Bà Bùi Thị M và ông Hà Xuân L tự nguyện sống chung vào năm 2011 và có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước nên hôn nhân giữa bà Bùi Thị M và ông Hà Xuân L là hợp pháp.

Theo đơn khởi kiện và tại phiên tòa thì bà M cho rằng vợ chồng sống hòa thuận đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn do chồng bà ngoại tình với người phụ nữ khác và đã có con riêng, nên cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Vì vậy, bà M xin được ly hôn với ông L. Mặc dù ông L đã được thông báo và triệu tập để tham gia làm việc và hòa giải nhằm xóa bỏ mâu thuẫn giữa 2 vợ chồng, nhưng ông L vẫn không có mặt.

Tại phiên tòa Bà M khẳng định mâu thuẫn giữa hai vợ chồng đã trầm trọng, bà không còn tình cảm với ông L nữa và cương quyết xin ly hôn. Mặt khác, ông L không không tham gia tố tụng để đưa ra phướng hướng hoặc hòa giải đoàn tụ với bà M. Như vậy, tình trạng hôn nhân giữa bà M và ông L đã trầm trọng, cuộc sống không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được; Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử quyết định cho bà M được ly hôn với ông L.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Hà Thị Mỹ T, sinh ngày 19/01/2012 và Hà Công Anh T1, sinh ngày 23/4/2013. Con chung hiện nay đang sống cùng ông L. Khi ly hôn, bà M cũng đồng ý giao con chung cho ông L tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung. Vì vậy, cần tiếp tục giao con chung cho ông L trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục là phù hợp. Bà M không trực tiếp nuôi con chung nhưng có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con theo quy định của pháp luật.

Về tài sản chung: Bà M khẳng định bà và ông L không có tài sản chung nên không yêu cầu giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.

Về nợ chung: Bà M khẳng định bà và ông L không nợ ai và không ai nợ lại nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí: Căn cứ khoản 4 điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Như vậy bà M phải chịu số tiền án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát huyện Lộc Ninh là phù hợp nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điều 39 Bộ luật dân sự;

- Điều 19, khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, 84, 85, 86 và 87 Luật hôn nhân gia đình;

- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Bùi Thị M

1/ Về quan hệ hôn nhân: Cho bà Bùi Thị M được ly hôn với ông Hà Xuân L.

2/ Về con chung: Giao con chung tên là Hà Thị Mỹ T, sinh ngày 19/01/2012 và Hà Công Anh T1, sinh ngày 23/4/2013 cho ông Hà Xuân L trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3/ Về tài sản chung: Bà M khẳng định bà và ông L không có tài sản chung nên không yêu cầu giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

4/ Về nợ chung: Bà M khẳng định bà và ông L không có nợ chung nên không yêu cầu giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

5/ Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Bùi Thị M phải chịu 300.000 đồng án phí, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số: 0009781 ngày 12/4/2022.

6/ Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

83
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 42/2022/HNGĐ-ST về ly hôn và nuôi con

Số hiệu:42/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lộc Ninh - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;