Bản án 42/2021/HS-ST ngày 18/06/2021 về tội cướp giật tài sản và trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TAM ĐIỆP, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 42/2021/HS-ST NGÀY 18/06/2021 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN VÀ TRỘM CẮP TÀI SẢN

 Ngày 18 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:30/2021/TLST-HS ngày 23 tháng 4 năm 2021 và theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 41/2021/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 6 năm 2021, đối với các bị cáo:

1. Quách Văn H, sinh ngày 07/02/1988, tại: huyện NQ, tỉnh Ninh Bình; nơi cư trú: thôn XQ, xã QL, huyện NQ, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; con ông Quách Văn N và bà Nguyễn Thị A; có vợ và 02 con; Tiền án: không; tiền sự: bị Uỷ ban nhân dân xã Quỳnh Lưu, Nho Quan áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường với thời hạn 03 tháng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” theo Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã (phường) số 05 ngày 31/7/2020, chấp hành xong ngày 02/11/2020; nhân thân:

1) bị xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 08/2008/HSST ngày 03/3/2008 của Tòa án nhân dân huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình (đã được xóa án tích) –

2) bị xử phạt 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 330/2009/HSST ngày 16/10/2009 của Tòa án nhân dân huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương (đã được xóa án tích)

 3). Bị xử phạt 01 năm 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 241/2012/HSST ngày 07/5/2012 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai (đã được xóa án tích) –

4). Bị xử phạt 01 năm 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp với hình phạt 1 năm 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 241/2012/HSST ngày 07/5/2012 của TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, được trừ đi thời gian đã chấp hành là 01 năm 02 tháng 26 ngày, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là là 1 năm 9 tháng 4 ngày (đã được xóa án tích) –

 5). Bị xử phạt 36 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản tại Bản án số 35/2015/HSST ngày 10/8/2015 của Tòa án nhân dân huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình, chấp hành xong hình phạt tù ngày 02/4/2018 (đã được xóa án tích) –

6). Bị xử phạt vi phạm hành chính 2.000.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản” tại Tổ dân phố Gềnh, phường Yên Bình, thành phố Tam Điệp theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 51/CATP, ngày 19/3/2021 của Công an thành phố Tam Điệp; bị tạm giữ từ ngày 29/11/2020 đến ngày 04/12/2020 chuyển Tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình đến nay (có mặt).

2. Nguyễn Quốc C, sinh ngày 21/7/1997, tại: huyện NQ, tỉnh Ninh Bình; nơi cư trú: Thôn A, xã PL, huyện NQ, Ninh Bình; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 7/12; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; con ông Nguyễn Văn T và bà Chu Thị T; có vợ và có 01 con; Tiền án, tiền sự: không; nhân thân: bị xử phạt vi phạm hành chính 2.000.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản” theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 50/CATP ngày 19/3/2021 của Công an thành phố Tam Điệp; bị tạm giữ từ ngày 29/11/2020 đến ngày 04/12/2020 chuyển Tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình đến nay (có mặt).

- Bị hại:

+ Bà Đặng Thị Đ, sinh năm 1945, trú tại tổ B, phường BS, thành phố TĐ, tỉnh Ninh Bình (vắng mặt).

+ Chị Đỗ Thị Q, sinh năm 1981, trú tại thôn TN, xã QS, thành phố TĐ, tỉnh Ninh Bình (vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án

+ Anh Nguyễn Viết L; sinh năm 1996, trú tại: thôn A, xã PL, huyện NQ, tỉnh Ninh Bình (vắng mặt).

+ Bà Vũ Thị Q1; sinh năm 1947; trú tại: tổ dân phố G, phường YB, thành phố TĐ, tỉnh Ninh Bình (vắng mặt).

+ Anh Vũ Văn B, sinh năm 1971, trú tại BX, xã KP, huyện NQ, tỉnh Ninh Bình (vắng mặt).

- Người làm chứng:

+ Ông Phạm Văn N (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Quách Văn H và Nguyễn Quốc C do có quan hệ quen biết nhau. Để có tiền tiêu sài cá nhân, H rủ C đến thành phố Tam Điệp để trộm cắp tài sản thì C đồng ý. Vào sáng ngày 25/11/2020, H và C đã cùng nhau thực hiện hành vi “Trộm cắp tài sản” tại thôn Tân Nam, xã Quang Sơn, thành phố Tam Điệp và hành vi “Cướp giật tài sản” tại Tổ 6, phường Bắc Sơn, thành phố Tam Điệp cụ thể như sau:

Hành vi “Trộm cắp tài sản”:

Khoảng 5 giờ ngày 25/11/2020, Nguyễn Quốc C điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu trắng, đeo biển kiểm soát 35N6-7721 chở Quách Văn H đi từ huyện NQ theo Quốc lộ 12B đến địa bàn thành phố TĐ. C chở H chạy lòng vòng trên Quốc lộ 1A và các tuyến đường thuộc địa bàn thành phố TĐ để tìm nhà dân có sơ hở thì vào trộm cắp tài sản. Khoảng 5 giờ 40 phút cùng ngày, C điều khiển xe mô tô chở H theo đường NTS đến địa bàn thôn Tân Nam, xã Quang Sơn, thành phố Tam Điệp. Khi đi qua cổng nhà chị Đỗ Thị Q khoảng 15 mét, H phát hiện cửa nhà chị Q mở, cửa cổng đóng, tường rào thấp. H bảo C quay lại. C hiểu ý, điều khiển xe mô tô quay lại, dừng trước cửa cổng nhà chị Q cảnh giới. H xuống xe thấy cửa cổng khóa nên trèo qua tường rào cao 1,5 mét phía bên phải cổng (hướng từ ngoài nhìn vào), đi qua sân vào đến cửa nhà, quan sát bên trong phòng khách không thấy có ai, trong phòng có 01 điện thoại di động nhãn hiệu SamSung Galaxy J2 Prime màu vàng để trên bàn và 01 điện thoại di động nhãn hiệu HTC Desire 326 G màu trắng để trên ghế, không có ai trông coi. H vào phòng khách dùng tay phải nhặt 02 chiếc điện thoại này bỏ vào túi quần rồi theo lối cũ trèo qua tường ra ngoài. C liền điều khiển xe mô tô chở H mang theo 02 chiếc điện thoại vừa trộm cắp được tẩu thoát.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 18/KL-HĐG ngày 03/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Tam Điệp kết luận: vào thời điểm ngày 25/11/2020 giá trị chiếc điện thoại nhãn hiệu SamSung Galaxy J2 Prime màu vàng là 1.680.000 đồng, giá trị chiếc điện thoại di động nhãn hiệu HTC Desire 326 G màu trắng là 800.000 đồng. Tổng giá trị của 02 chiếc điện thoại là 2.480.000đ (Hai triệu bốn trăm tám mươi nghìn đồng).

Hành vi “Cướp giật tài sản”:

Sau khi trộm cắp 02 chiếc điện thoại di động nêu trên của chị Đỗ Thị Q tại thôn Tân Nam, xã Quang Sơn, thành phố Tam Điệp, Nguyễn Quốc C tiếp tục điều khiển xe mô tô chở Quách Văn H đi đến đường TP thuộc địa bàn phường BS, thành phố TĐ. Khoảng 6 giờ 15 phút cùng ngày khi đến khu vực Tổ 6, phường Bắc Sơn, thành phố Tam Điệp, H quan sát thấy xung quanh vắng vẻ, trên đường không có người, phía bên phải đường có bà Đặng Thị Đ, sinh năm 1945 đang quét dọn trên đường giáp vỉa hè trước cửa nhà, sau lưng bà Đ có đeo một túi bằng vải dạng thổ cẩm nên H nảy sinh ý định giật chiếc túi của bà Đ. Khi C chở H đi qua bà Đ khoảng 20 mét, H rủ C cướp giật chiếc túi của bà Đ, H nói “quay xe lại, đằng kia có túi tiền”, C đồng ý. C điều khiển xe mô tô quay lại áp sát phía bên trái bà Đ (cách khoảng 50cm), H ngồi sau dùng tay trái giật chiếc túi vải của bà Đ đang đeo trên lưng, làm đứt dây đeo túi. Ngay sau khi H giật được chiếc túi của bà Đ, C tăng ga điều khiển xe mô tô chở H nhanh chóng bỏ chạy ra quốc lộ 12B và đi về huyện NQ. Trên đường đi, H kiểm tra trong túi có số tiền 1.400.000 đồng. H giữ lại 1.100.000 đồng, còn lại chia cho C 300.000 đồng. Số tiền cướp giật được của bà Đ, cả hai đã ăn tiêu hết. Đối với chiếc túi vải thổ cẩm chiếm đoạt của bà Đ, H đã vứt đi và không nhớ được địa điểm vứt nên quá trình điều tra không thu hồi được.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 18/KL-HĐG ngày 03/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Tam Điệp kết luận: vào thời điểm ngày 25/11/2020 chiếc túi bằng vải thổ cầm có giá trị 50.000đ (Năm mươi nghìn đồng).

Ngoài hai lần thực hiện hành vi phạm tội như đã nêu trên, khoảng 6 giờ sáng ngày 29/11/2020 Quách Văn H và Nguyễn Quốc C còn cùng nhau thực hiện hành vi trộm cắp 03 chiếc điện thoại di động tại nhà của bà Vũ Thị Q1 (sinh năm 1947) ở Tổ dân phố Gềnh, phường Yên Bình, thành phố Tam Điệp, gồm 01 điện thoại nhãn hiệu Xphone X6216 màu đen, 01 điện thoại nhãn hiệu Mobell S61 màu xanh dương và 01 điện thoại Noka TA 1203.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 18/KL-HĐG ngày 03/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Tam Điệp kết luận: vào thời điểm ngày 29/11/2020 01 điện thoại nhãn hiệu Xphone X6216 màu đen, 01 điện thoại nhãn hiệu Mobell S61 màu xanh dương và 01 điện thoại Noka TA 1203 có tổng giá trị là 1.440.000đ (Một triệu bốn trăm bốn mươi nghìn đồng).

Sau khi trộm cắp được 05 chiếc điện thoại của chị Đỗ Thị Q và bà Vũ Thị Q1, Quách Văn H chia cho Nguyễn Quốc C 2 chiếc điện thoại gồm: 01 điện thoại nhãn hiệu Mobell S61 màu xanh dương và 01 điện thoại nhãn hiệu Noka TA 1203; còn lại 03 chiếc điện thoại gồm: 01 điện thoại nhãn hiệu Xphone X6216 màu đen, 01 điện thoại di động nhãn hiệu SamSung Galaxy J2 Prime màu vàng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu HTC Desire 326 G màu trắng H chiếm hưởng. Sau khi chia nhau tài sản trộm cắp, sợ bị phát hiện nên H đã tháo chiếc sim ở điện thoại SamSung Galaxy J2 Prime màu vàng vứt đi, quá trình điều tra không thu giữ được.

Khoảng 16 giờ 15 phút ngày 29/11/2020, khi C điều khiển xe mô tô đeo biển kiểm soát 35N6-7721 chở H trên đường liên xã thuộc thôn A, xã PL, huyện NQ thì bị Tổ công tác của Công an thành phố Tam Điệp phát hiện chiếc xe mô tô mà C điều khiển đeo biển kiểm soát nêu trên và chiếc áo mà Quách Văn H đang mặc trùng với thông tin mà bà Đặng Thị Đ cung cấp. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Nguyễn Quốc C và Quách Văn H; thu giữ trong người của H 03 chiếc điện thoại di động (gồm: 01 điện thoại nhãn hiệu Xphone X6216 màu đen, 01 điện thoại di động nhãn hiệu SamSung Galaxy J2 Prime màu vàng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu HTC Desire 326 G màu trắng), 01 áo khoác màu xanh dài tay, kích thước (40x82)cm, cổ áo bên trong có chữ VOGUE Hoàn đang mặc trên người; thu giữ trong người của Nguyễn Quốc C 02 chiếc điện thoại (gồm: 01 điện thoại nhãn hiệu Mobell S61 màu xanh dương, 01 điện thoại nhãn hiệu Noka TA 1203) và 01 xe mô tô đeo biển kiểm soát 35N6-7721.

Tại bản cáo trạng số 31/CT-VKS ngày 22/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp truy tố bị cáo Quách Văn H và Nguyễn Quốc C về tội “Trộm cắp tài sản”, theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự và tội “Cướp giật tài sản” theo điểm g và điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp vẫn giữ nguyên bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị:

- Tuyên bố bị cáo Quách Văn H và Nguyễn Quốc C phạm tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Cướp giật tài sản”

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm g và điểm d khoản 2 Điều 171; điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 55 của Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Quách Văn H từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, từ 42 tháng tù đến 48 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, tổng hợp hình phạt của cả hai tội, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung từ 54 tháng tù đến 63 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 29/11/2020.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm g và điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 55 của Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc C từ 09 tháng tù đến 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, từ 36 tháng tù đến 42 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, tổng hợp hình phạt của cả hai tội, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung từ 45 đến 54 tháng Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 29/11/2020.

- Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp: áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; các điểm a, c khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự, đề nghị:

+ Trả lại cho bị cáo Quách Văn H 01 áo khoác màu xanh dài tay, kích thước (40x82)cm, cổ áo bên trong có chữ VOGUE.

+ Tịch thu tiêu hủy 01 biển số xe 35N6 -7721.

Tại phiên tòa các bị cáo thừa nhận việc truy tố, xét xử là đúng người, đúng tội. Các bị cáo trình bày diễn biến hành vi bị truy tố đúng như bản cáo trạng đã nêu. Các bị cáo đều đồng ý với luận tội của Đại diện Viện kiểm sát, nói lời sau cùng các bị cáo đề nghị được giảm nhẹ hình phạt.

Trong quá trình điều tra, bị hại Đỗ Thị Q khai báo vào sáng ngày 25/11/2020, chị Q đã bị mất trộm 01 điện thoại di động nhãn hiệu SamSung Galaxy J2 Prime màu vàng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu HTC Desire 326 G màu trắng. Đến nay, chị Đỗ Thị Q đã được trả lại 02 chiếc điện thoại, chị Q không yêu cầu gì.

Trong quá trình điều tra, bị hại Đặng Thị Đ khai báo: Vào khoảng 6 giờ 15 phút, ngày 25/11/2020 khi đang quét dọn trên đường giáp vỉa hè trước cửa nhà, bà Đ đã bị cướp giật một túi bằng vải dạng thổ cẩm bên trong số tiền 1.400.000 đồng. Bà Đặng Thị Đ xác nhận đã được bồi thường đầy đủ và không có yêu cầu gì.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Vũ Thị Q1 xác nhận vào khoảng 6 giờ sáng ngày 29/11/2020, bà Q1 bị mất trộm 03 chiếc điện thoại di động gồm 01 điện thoại nhãn hiệu Xphone X6216 màu đen, 01 điện thoại nhãn hiệu Mobell S61 màu xanh dương và 01 điện thoại Noka TA 1203. Đến nay, bà Vũ Thị Q1 đã nhận đủ 03 chiếc điện thoại di động nêu trên và không có yêu cầu gì.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Viết L trong quá trình điều tra xác nhận đã được Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Tam Điệp trả lại chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu trắng, số khung: RLHJA 3902 HY 514872, số máy: JA39E- 0490036, anh Nguyễn Viết L không có yêu cầu, đề nghị gì.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Vũ Văn B trong quá trình điều tra xác nhận chiếc biển kiểm soát 35N6 -7721 đã được anh B bán sắt vụ cùng xe máy nên anh B không có nhu cầu sử dụng nên không nhận lại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an thành phố Tam Điệp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của các bị cáo, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, phù hợp với nội dung kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, vật chứng đã thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên đủ cơ sở để kết luận: Lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu tài sản khi sáng sớm, ngày 25/11/2020, tại thôn Tân Nam, xã Quang Sơn, thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình các bị cáo Quách Văn H và Nguyễn Quốc C đã lén lút lẻn vào nhà chị Q, chiếm đoạt 01 điện thoại di động nhãn hiệu SamSung Galaxy J2 Prime màu vàng để trên bàn trị giá 1.680.000 đồng và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu HTC Desire 326 G màu trắng trị giá 800.000 đồng; đến khoảng 6 giờ 15 phút cùng ngày tại Tổ 6, phường Bắc Sơn, thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình các bị cáo Quách Văn H và Nguyễn Quốc C ngang nhiên giật chiếc túi của bà Đ khi đang quét dọn trên đường giáp vỉa hè trước cửa nhà, 01 chiếc túi vải dạng thổ cẩm trị giá 50.000 đồng và số tiền 1.400.000 đồng trong túi xách của bà Đặng Thị Đ.

[3] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, do cố ý, xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác, ảnh hưởng đến tình hình trật tự, trị an tại địa phương.

Điều 173 của Bộ luật Hình sự quy định tội “Trộm cắp tài sản” như sau: “Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: . . .” Điều 171 của Bộ luật Hình sự quy định tội “Cướp giật tài sản” như sau:

1. Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

a) . . .

d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm;

. . .

g) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ; ” Các bị cáo Quách Văn H và Nguyễn Quốc C là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Hành vi lợi dụng sơ hở, lén lút lẻn vào nhà chị Đỗ Thị Q chiếm đoạt 01 điện thoại di động nhãn hiệu SamSung Galaxy J2 Prime trị giá 1.680.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu HTC Desire 326 G trị giá 800.000 đồng, tổng giá trị là 2.480.000 đồng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Hành vi sử dụng xe mô tô áp sát, giật chiếc túi vải dạng thổ cẩm bên trong có số tiền 1.400.000 đồng của bà Đinh Thị Đ đang đeo bên người, rồi nhanh chóng điều khiển xe mô tô bỏ chạy đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại các điểm d, g khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp truy tố các bị cáo Quách Văn H và Nguyễn Quốc C theo bản cáo trạng là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: các bị cáo Quách Văn H và Nguyễn Quốc C không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra, truy tố, xét xử các bị cáo Quách Văn H và Nguyễn Quốc C đã khai báo thành khẩn, do vậy các bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “thành khẩn khai báo” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với cả hai tội. Bị cáo Quách Văn H đã ủy quyền cho gia đình bồi thường thiệt hại cho bà Đinh Thị Đ số tiền 1.150.000 đồng nên bị cáo Quách Văn H được áp dụng thêm điểm b khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với tội “Cướp giật tài sản”. Bị cáo Nguyễn Quốc C được gia đình tự nguyện bồi thường cho bà Đinh Thị Đ số tiền 300.000 đồng nên bị cáo Nguyễn Quốc C được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với tội “Cướp giật tài sản”.

Về nhân thân: bị cáo Quách Văn H là người có nhân thân rất xấu, nhiều lần có hành vi vi phạm pháp luật, bị kết án nhưng đã được xóa án tích, phạm tội trong thời gian có một tiền sự. Bị cáo Nguyễn Quốc C ngoài 02 hành vi phạm tội, bị cáo C còn có hành vi vi phạm hành chính trộm cắp tài sản bị xử lý hành chính.

[5] Xét tình chất hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ, giá trị tài sản chiếm đoạt và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp đồng phạm, trong cả hai hành vi phạm tội “Cướp giật tài sản” và “Trộm cắp tài sản”, bị cáo Quách Văn H là người rủ rê, đồng thời là người thực hiện hành vi chiếm đoạt. Bị cáo Nguyễn Quốc C giúp sức tích cực, sử dụng xe mô tô do mình quản lý làm phương tiện phạm tội, cảnh giới cho H thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, khi được H yêu cầu đã điều khiển mô tô áp sát bà Đ cho H giật tài sản sau đó tăng ga bỏ chạy. Do vậy Quách Văn H là người có vai trò cao hơn trong vụ án, đồng thời cũng có nhân thân xấu hơn bị cáo Nguyễn Quốc C nên bị cáo H phải chịu mức hình phạt cao hơn so với bị cáo Nguyễn Quốc C đối với cả hai tội. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cũng xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo do có nhiều tình tiết giảm nhẹ, mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử phạt bị cáo là có căn cứ, tương xứng với hành vi phạm tội, đảm bảo tác dụng ngăn người tội phạm và giáo dục, cải tạo bị cáo nên cần chấp nhận.

Các bị cáo bị xét xử về nhiều tội nên phải chịu hình phạt chung của 2 tội theo Điều 55 của Bộ luật Hình sự.

[6] Ngày 29/12/2020, các bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp của bà Vũ Thị Q1 gồm 01 điện thoại nhãn hiệu Xphone X6216 màu đen, 01 điện thoại nhãn hiệu Mobell S61 màu xanh dương và 01 điện thoại Noka TA 1203, có tổng giá trị là 1.440.000 đồng, tuy nhiên hành vi trộm cắp của các bị cáo không liên tục, kế tiếp về mặt thời gian với hành vi trộm cắp tài sản trước đó; không có tính chất chuyên nghiệp. Tại thời điểm thực hiện hành vi trộm cắp, H và C đều chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, những lần bị Tòa án kết án về tội trộm cắp tài sản đã được xóa án tích. Do vậy hành vi của H và C không cấu thành tội phạm nên Công an thành phố Tam Điệp đã ra các quyết xử phạt vi phạm hành chính đối với Nguyễn Quốc C và Quách Văn H là đúng quy định của pháp luật.

[7] Về trách nhiệm dân sự:

Bà Đặng Thị Đ đã được gia đình các bị cáo bồi thường số tiền 1.450.000 đồng, chị Đỗ Thị Q Cơ quan Điều tra trả lại 02 chiếc điện thoại, bà Vũ Thị Q1đã được Cơ quan Điều tra trả lại 03 chiếc điện thoại do các bị cáo trộm cắp. Đến nay, bà Đ, chị Q, bà Q1 không yêu cầu tiếp tục giải quyết việc bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét việc bồi thường.

[8] Anh Nguyễn Viết L không biết các bị cáo dùng chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu trắng, số khung: RLHJA 3902 HY 514872, số máy: JA39E- 0490036 để thực hiện hành vi phạm tội. Anh Vũ Văn B không có lỗi trong việc các bị cáo sử dụng biển số xe 35N6 – 7721 để thực hiện hành vi phạm tội nên anh Nguyễn Văn L, anh Vũ Văn B không vi phạm pháp luật.

[9] Về xử lý vật chứng:

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Tam Điệp đã trả lại 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu trắng, số khung: RLHJA 3902 HY 514872, số máy: JA39E- 0490036 cho anh Nguyễn Viết L do anh L không có lỗi để các bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội; trả lại 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung Galaxy J2 Prime màu vàng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu HTC Desire 326G màu trắng là tài sản bị chiếm đoạt cho chị Đỗ Thị Q; trả lại 01 điện thoại nhãn hiệu Xphone X6216 màu đen, 01 điện thoại nhãn hiệu Mobell S61 màu xanh dương và 01 điện thoại Noka TA 1203 là tài sản bị chiếm đoạt cho bà Vũ Thị Q1 là đúng pháp luật.

Đối với 01 chiếc biển số xe 35N6 -7721, do anh B bán sắt vụn, không còn sử dụng và không có yêu cầu nhận lại nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, các điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 áo khoác màu xanh dài tay, kích thước (40x82)cm, cổ áo bên trong có chữ VOGUE thu giữ của Quách Văn H, là tài sản của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên căn cứ điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự cần trả lại cho bị cáo.

[10] Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

 QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm g và điểm d khoản 2 Điều 171; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 55 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Quách Văn H;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm g và điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 55 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Quốc C.

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; các điểm a, c khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;

Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án.

1. Tuyên bố: Các bị cáo Quách Văn H và Nguyễn Quốc C phạm tội “Cướp giật tài sản” và tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt:

2.1. Xử phạt bị cáo Quách Văn H 04 (bốn) năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai tội là 05 (năm) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 29/11/2020.

2.2. Xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc C 03 (ba) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai tội là 04 (bốn) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 29/11/2020.

3. Xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp:

- Trả lại cho bị cáo Quách Văn H 01 áo khoác màu xanh dài tay, kích thước (40x82)cm, cổ áo bên trong có chữ VOGUE.

- Tịch thu tiêu hủy 01 biển số xe 35N6 -7721.

(Các vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/4/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Tam Điệp và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tam Điệp).

4. Về án phí: Buộc các bị cáo Quách Văn H và Nguyễn Quốc C mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm, bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 42/2021/HS-ST ngày 18/06/2021 về tội cướp giật tài sản và trộm cắp tài sản

Số hiệu:42/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tam Điệp - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;