Bản án 42/2021/HNGĐ-ST ngày 13/09/2021 về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 42/2021/HNGĐ-ST NGÀY 13/09/2021 VỀ THAY ĐỔI NGƯỜI TRỰC TIẾP NUÔI CON SAU KHI LY HÔN

Ngày 13 tháng 9 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 124/2021/TLST- HNG§ ngµy 22 tháng 6 năm 2021 về việc :“Thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 17 tháng 7 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 35/2021/QĐ-HNGĐ ngày 01/9/2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị Nh, sinh năm 1983 Địa chỉ: Thôn Tr, xã Ngh, huyện K, tỉnh Hưng Yên

- Bị đơn: Anh Lương Quốc V, sinh năm 1975 Địa chỉ: Thôn Đ, xã Ph, huyện N, tỉnh Ninh Bình.

Các đương sự vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 22 tháng 6 năm 2021 và bản tự khai, nguyên đơn Chị Trần Thị Nh trình bày: chị và Anh Lương Quốc V có 02 con chung là các cháu Lương Phúc Lan H sinh ngày 15/6/2013 và cháu Lương Phúc L sinh ngày 04/01/2019. Do mâu thuẫn anh chị đã thỏa thuận thuận tình ly hôn, tại Quyết định công nhận thuận tình số 55/2019/QĐST- HNGĐ ngày 18/6/2019 của Tòa án nhân dân huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên đã quyết định chị được trực tiếp chăm sóc và nuôi cháu Lương Phúc L sinh ngày 04/01/2019 còn anh V trực tiếp chăm sóc và nuôi cháu Lương Phúc Lan H sinh ngày 15/6/2013. Tuy nhiên sau đó anh V đã không trực tiếp chăm sóc cháu H, cháu đến tuổi đi học và là con gái phải thường xuyên ở nhà với bà nội là mẹ anh V, bản thân anh Vđi lái xe đường dài không quan tâm gì đến cháu. Hoàn cảnh mẹ anh V cũng thuộc hộ nghèo rất khó khăn. Hiện nay chị buôn bán kinh doanh, có nhà riêng, đủ điều kiện để nuôi các cháu. Khi chị về thăm cháu H thì anh Vcũng không có nhà, chị đã xin phép mẹ anh V đón cháu về với chị từ tháng 6/2021 cho đến nay. Tuy nhiên anh V cũng không hề hỏi han thăm nom gì. Nay chị đề nghị Tòa án huyện N thay đổi cho chị được trực tiếp là người nuôi dưỡng và chăm sóc cháu Lương Phúc Lan H cho đến khi cháu đủ 18 tuổi và chị không đề nghị anh V phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.

Đối với bị đơn Anh Lương Quốc V: Mặc dù đã biết việc Tòa án nhân dân huyện N đã thụ lý giải quyết vụ án chị Nh xin thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, nhưng anh V vẫn không gửi văn bản trả lời thông báo thụ lý vụ án đến Tòa án và cũng không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án. Theo biên bản xác minh của Tòa án với Ủy ban nhân dân xã Ph thì hiện nay anh V vẫn có hộ khẩu và đang sinh sống cùng với gia đình tại Thôn Đ, xã Ph, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Tòa án đã tiến hành tống đạt thông báo và giấy triệu tập của Tòa án cho bà Vũ Thị L là mẹ đẻ anh V, bà L đã nhận và cam đoan giao cho anh V.

Tại bản tự khai của bà Vũ Thị L ngày 28/7/2021, bà L xác nhận: anh V thường xuyên không có nhà do đi làm ăn xa, anh V chỉ gửi tiền về cho bà nuôi cháu H.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 30/6/2021, cháu Lương Phúc Lan H trình bày: Cháu đang ở với bà nội, vì bố cháu là lái xe nên thường xuyên không có nhà. Bà nội cháu đã già nên không thể dậy cháu học bài được. Cháu phải tự đi học, tự chăm sóc cho cá nhân cháu. Cháu muốn được mẹ cháu đón cháu về để cháu được ở với em cháu và được mẹ chăm sóc dạy bảo cháu học hành.

Theo biên bản làm việc ngày 02/8/2021 của Tòa án nhân dân huyện N với UBND xã Ph, huyện N thì Ủy ban xác định hiện nay cháu Lương Phúc Lan H đang sinh sống cùng bà Vũ Thị L là bà nội cháu là đúng, anh V là lái xe đường dài nên thường xuyên không có nhà.

Do quá trình giải quyết anh V không đến Tòa án để tiến hành phiên hòa giải vì vậy vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được và được đưa ra xét xử theo thủ tục chung.

Tại đơn xin xử vắng mặt, nguyên đơn vẫn giữ nguyên quan điểm như quá trình giải quyết vụ án.

Ý kiến phát biểu của kiểm sát viên:

* Về thủ tục tố tụng:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện và chấp hành quyền và nghĩa vụ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

* Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX:

- Áp dụng các Điều 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 5, khoản 3 Điều 28, Điều 147, 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 và danh mục án phí, lệ phí ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016. Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Chị Trần Thị Nh. Giao cháu Lương Phúc Lan H sinh ngày 15/6/2012, hiện đang ở với anh V, cho chị Nh trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu đủ 18 tuổi, hoặc đến khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. anh V không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

2. Về án phí: Chị Trần Thị Nh nộp án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về thủ tục tố tụng:

[1.1]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Đây là quan hệ pháp luật “Thay đổi người trực tiếp nuôi con chung sau khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[1.2]. Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Bị đơn có hộ khẩu thường trú tại Thôn Đ, xã Ph, huyện N, tỉnh Ninh Bình nên Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình thụ lý vụ án là phù hợp với quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2]. Về nội dung: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa HĐXX nhận thấy: Tại Quyết định công nhận thuận tình số 55/2019/QĐST- HNGĐ ngày 18/6/2019 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Hưng Yên đã quyết định Chị Trần Thị Nh trực tiếp nuôi cháu Lương Phúc L sinh ngày 04/01/2019, Anh Lương Quốc V trực tiếp nuôi cháu Lương Phúc Lan H sinh ngày 15/6/2013. Các bên đã thực hiện quyết định này. Tuy nhiên hiện nay chị Nh cho rẳng anh V đã không đảm bảo điều kiện để nuôi dậy cháu H, vì hiện nay cháu H đã đến tuổi đi học nhưng anh V là lái xe đường dài thường xuyên không có nhà, để cháu H cho bà Vũ Thị L là bà nội cháu chăm sóc. Bà L năm nay 78 tuổi, gia đình lại hoàn cảnh, anh V không quan tâm chăm sóc cháu H, vì vậy ảnh hưởng đến cuộc sống của cháu. Vì vậy chị đề nghị Tòa án huyện N giải quyết cho chị được trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng cháu H.

Hội đồng xét xử thấy rằng: Việc anh V không trực tiếp thường xuyên nuôi dưỡng và chăm sóc cháu H là có thật, điều này được chứng minh qua lời khai của bà Vũ Thị L và của cháu H. Qua xác minh tại ủy ban nơi cư trú của anh V thì ủy ban xác định anh V là lái xe đường dài thường xuyên không có mặt tại nhà. Mặt khác cháu H hiện nay đang học tiểu học, cháu lại là con gái, việc không có người quan tâm chăm sóc cháu về vật chất cũng như đời sống cá nhân tinh thần rất ảnh hưởng đến sự phát triển về thể chất và tâm sinh lý của cháu. Chị Nh chứng minh được chị có thu nhập, có nơi ở ổn định, đủ điều kiện để nuôi dậy các con. Vì vậy việc giao cháu H cho chị Nh trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng là có căn cứ đảm bảo quyền lợi ích cho cháu.

Từ những nhận định trên, căn cứ vào Điều 84 Luật hôn nhân gia đình Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn của Chị Trần Thị Nh.

Về cấp dưỡng nuôi con: chị Nh không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.5]. Về án phí sơ thẩm: Chị Trần Thị Nh phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các điều 147, 227, 228, 238, 266, 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Áp dụng các điều 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình.

- Áp dụng Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH-14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí Toà án.

1. Chấp nhận yêu khởi kiện của Chị Trần Thị Nh về việc yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi cháu Lương Phúc Lan H. Giao cháu Lương Phúc Lan H sinh ngày 15/6/2013, hiện đang ở với Anh Lương Quốc V, cho Chị Trần Thị Nh trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng cho đến khi cháu H đủ 18 tuổi hoặc khi có thay đổi khác. anh V không phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị Nh.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc và nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

2. Về án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị Trần Thị Nh phải nộp toàn bộ án phí theo quy định của pháp luật là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). Được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) chị Nhđã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí ly hôn số AA/2021/0003345 ngày 22/6/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện N.

3. Quyền kháng cáo: Chị Trần Thị Nh và Anh Lương Quốc V được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 42/2021/HNGĐ-ST ngày 13/09/2021 về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn

Số hiệu:42/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;