Bản án 42/2021/HNGĐ-ST ngày 12/08/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 42/2021/HNGĐ-ST NGÀY 12/08/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

 Ngày 12/8/2021, tại Trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 39/2021/TLST-HNGĐ, ngày 23/3/2021 về tranh chấp “Hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:40/2021/QĐXXST-HNGĐ, ngày 12/7/2021 giữa:

Nguyên đơn: Chị Phùng Thị H, sinh năm 1988 (vắng mặt) HKTT: Thôn P, xã Q, huyện G, tỉnh Bắc Ninh.

Bị đơn: Anh Nguyễn Quang A, sinh năm 1990 (vắng mặt) HKTT: Thôn P, xã Q, huyện G, tỉnh Bắc Ninh.

Hiện đang lao động tại Đài Loan.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn và các lời khai tiếp theo tại Toà án, nguyên đơn chị Phùng Thị H trình bày:

- Quan hệ hôn nhân: Chị và anh Quang A kết hôn ngày 27/9/2010, trước khi kết hôn anh chị có được tự do tìm hiểu, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q, huyện G, tỉnh Bắc Ninh.

Sau khi kết hôn, vợ chồng về sống chung cùng gia đình nhà chồng tại thôn P, xã Q. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2017 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh chị khác nhau về quan điểm sống, cách sống; cũng trong năm 2017, anh Quang A đi lao động tại Đài Loan từ đó anh chị rất ít khi liên lạc với nhau. Chị xác định giữa chị và anh Quang A cho đến nay không còn tình cảm, vợ chồng không thể sống chung với nhau được nữa. Vì vậy, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị và anh Quang A được ly hôn.

- Con chung: Vợ chồng có một con chung là Nguyễn Thị Kim O, sinh ngày 28/02/2012, hiện cháu đang ở cùng ông bà nội. Khi ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi con và không yêu cầu anh Quang A cấp dưỡng nuôi con.

- Tài sản chung, công nợ: Không có nên không yêu cầu giải quyết.

Bị đơn là anh Nguyễn Quang A có văn bản gửi từ Đài Loan trình bày:

- Quan hệ hôn nhân: Anh công nhận lời trình bày của chị H về điều kiện hoàn cảnh kết hôn là đúng. Vợ chồng anh mâu thuẫn từ những năm 2014 và đến năm 2017 thì mâu thuẫn trầm trọng hơn, nguyên nhân là do anh và chị H không hợp nhau về cách sống, quan điểm sống nên cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc.

Năm 2017, anh đi xuất khẩu lao động, từ khi anh đi xuất khẩu lao động đến nay vợ chồng không có liên lạc với nhau. Anh xác định vợ chồng không thể sống chung với nhau được nữa nên anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh và chị H ly hôn.

- Con chung: Vợ chồng có một con chung như chị H trình bày là đúng. Tuy nhiên, tại bản tự khai anh không có quan điểm về con chung.

- Tài sản chung, công nợ: Không có nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

Toà án đã tiến hành hoà giải nhưng không được do anh Quang A đang đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan và có đơn đề nghị vắng mặt trong các phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ, hòa giải của Tòa án.

Tại phiên tòa, chị Phùng Thị H và anh Nguyễn Quang A xin xét xử vắng mặt. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng từ khi thụ lý vụ án tới khi nghị án là đảm bảo đúng theo trình tự thủ tục tố tụng.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử, công nhận việc thuận tình ly hôn của chị Phùng Thị H và anh Nguyễn Quang A; giao con chung là cháu Nguyễn Thị Kim O, sinh ngày 28/02/2012 cho chị Hạnh nuôi dưỡng. Những vấn đề khác do đương sự không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

- Quan hệ hôn nhân giữa chị Phùng Thị H và anh Nguyễn Quang A đã tuân thủ các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình nên là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống không hạnh phúc, cả hai bên đều xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được và đều đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn.

Xét thấy, yêu cầu xin ly hôn của các đương sự là tự nguyện, phù hợp với thực tế cuộc sống chung, phù hợp với quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Con chung: Vợ chồng có một con chung là Nguyễn Thị Kim O, sinh ngày 28/02/2012, hiện nay cháu đang ở cùng ông bà nội. Cháu Oanh có nguyện vọng được ở cùng bố, chị H có nguyện vọng xin được nuôi con.

Hội đồng xét xử thấy: tuy cháu Oanh có nguyện vọng được ở cùng bố nhưng do anh Quang A hiện đang lao động tại Đài Loan nên không thể trực tiếp chăm sóc cho cháu được. Vì vậy, để đảm bảo việc chăm sóc con sau ly hôn thì cần giao con chung cho chị H nuôi dưỡng là phù hợp. Cấp dưỡng nuôi con: Do chị H không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

- Tài sản chung, công nợ: Do các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và đương sự là đúng quy định pháp luật. Và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Quan hệ hôn nhân: Công nhận việc thuận tình ly hôn giữa chị Phùng Thị H và anh Nguyễn Quang A.

- Con chung: Giao cháu Nguyễn Thị Kim O, sinh ngày 28/02/2012 cho chị Phùng Thị H nuôi dưỡng kể từ tháng 8/2021 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Cấp dưỡng nuôi con không giải quyết.

- Tài sản chung, công nợ: Không giải quyết.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ vào các Điều 37, 38, 70 ,147, 228, 266, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, 55, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án. Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Phùng Thị H.

- Quan hệ vợ chồng: Công nhận việc thuận tình ly hôn giữa chị Phùng Thị H và anh Nguyễn Quang A.

- Con chung: Giao cháu Nguyễn Thị Kim O, sinh ngày 28/02/2012 cho chị Phùng Thị H chăm sóc, nuôi dưỡng kể từ tháng 8/2021 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Cấp dưỡng nuôi con: Không giải quyết.

Anh Nguyễn Quang A có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở; không lạm dụng việc thăm nom để gây cản trở đến việc nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

2. Án phí: Chị Phùng Thị H phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ 300.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 0004758 ngày 22/3/2031 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh.

Chị Phùng Thị H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.

Anh Nguyễn Quang A có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày nhận được kết quả bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

138
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 42/2021/HNGĐ-ST ngày 12/08/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:42/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;