TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN C, THÀNH PHỐ T
BẢN ÁN 42/2021/DSST NGÀY 27/04/2021 VỀ TRANH CHẤP NỢ HỤI
Trong ngày 27 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận C, thành phố T xét xử sơ thẩm công khai vụ án Dân sự thụ lý số: 226/2020/TLST-DS ngày 17 tháng 11 năm 2020 về “Tranh chấp nợ hụi”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 62/2021/QĐXXST- DS ngày 12 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 70/2021/QĐ-ST ngày 07/4/2021, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Phạm Văn H, sinh năm 1976. (Có mặt). Địa chỉ: khu vực P, phường T, quận C, thành phố T.
Bị đơn: Ông Trần Ngọc N, sinh năm 1976. (Vắng mặt). Địa chỉ: khu vực H, phường T, quận C, thành phố T.
Người có quyền lợi , nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị X, sinh năm 1987. (Vắng mặt). Địa chỉ: khu vực H, phường T, quận C, thành phố T.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện đề ngày 20/10/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn ông Phạm Văn H trình bày:
Ông H có tham gia dây hụi do bà Nguyễn Thị X và ông Trần Ngọc N làm chủ hụi, cụ thể như sau:
- Dây hụi tháng mở ngày 25/3/2017, có 30 chưng, mỗi chưng hụi là 500.000đ. Ông H tham gia 01 chưng. Dây hụi này có 20 chưng hụi đã hốt, 10 phần hụi sống, mỗi tháng khui một lần. Sau đó tuyên bố bể hụi. Ông H đã đóng được 4.890.000 đồng. Do hụi bể nên ông H yêu cầu bị đơn trả số tiền của dây này là 10.000.000 đồng.
- Dây hụi mở ngày 30/5/2018, có 19 chưng. Mỗi chưng là 3.000.000 đồng, 02 tháng xổ một lần, đã chết 08 chưng. Ông H tham gia 01 chưng. Tổng số tiền đã đóng là 21.200.000 đồng. Hụi bể nên ông H yêu cầu bị đơn trả lại số tiền hụi của 08 chưng hụi chết là 24.000.000 đồng.
- Dây hụi mở ngày 10/9/2018, có 11 chưng. Mỗi chưng là 5.000.000 đồng, 02 tháng xổ một lần, đã chết 04 chưng. Ông H tham gia 01 chưng. Tổng số tiền đã đóng là 9.600.000 đồng. Hụi bể nên ông H yêu cầu bị đơn trả lại số tiền hụi của 04 chưng hụi chết là 20.000.000 đồng.
Tổng số tiền ông H yêu cầu bị đơn trả là 54.000.000 đồng.
* Bị đơn Trần Ngọc N trình bày: Bị đơn thừa nhận có mở các dây hụi như nguyên đơn trình bày. Tuy nhiên số tiền còn nợ nguyên đơn thì chưa thống nhất do phải đối chiếu lại và cần làm rõ từ vợ ông là bà Nguyễn Thị X.
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị X trình bày: Bà X thừa nhận cùng chồng Trần Ngọc N có mở hụi cho Phạm Văn H tham gia. Tuy nhiên, đối với số tiền nợ hụi của nguyên đơn thì bà X sẽ đối chiếu lại.
Do vụ án hòa giải không thành cho nên đưa ra xét xử theo qui định của pháp luật.
Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn đã rút một phần yêu cầu khởi kiện yêu cầu bị đơn trả lại số tiền hụi đã đóng qua các lần với số tiền cụ thển như sau: hụi ngày 25/3/2017 với số tiền là 4.890.000 đồng, hụi ngày 30/5/2018 với số tiền là 10.600.000 đồng, hụi ngày 10/9/2018 với số tiền là 9.600.000 đồng. Tổng số tiền nguyên đơn yêu cầu ông Ngà, bà X phải trả là 25.090.000 đồng. Ông N và Bà X vắng mặt tại phiên tòa.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận C phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử thực hiện đúng trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật; Người tham gia tố tụng thực hiện đúng theo quy định của pháp luật về sự có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án.
Về nội dung vụ án: Từ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ nhận thấy nguyên đơn có chơi hụi của bị đơn. Bị đơn bể hụi. Nay, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ông Trần Ngọc N và bà Nguyễn Thị X trả số tiền 25.090.000 đồng tiền hụi đã đóng là có cơ sở. Do đó, đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật: Căn cứ đơn khởi kiện cho thấy giữa nguyên đơn và bị đơn có hình thành giao dịch về hụi. Do bị đơn bể hụi nên phát sinh tranh chấp, đây là quan hệ “Tranh chấp nợ hụi” giữa công dân với nhau được ngành luật dân sự điều chỉnh và tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân quận C theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Về thủ tục tố tụng : Đối với bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ nhiều lần nhưng bị đơn Trần Ngọc N và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị X vẫn vắng mặt không rõ lý do Do đó, Tòa án áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 xét xử vắng mặt bị đơn Trần Ngọc N và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị X.
[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
+ Đối với dây hụi tháng mở ngày 25/3/2017, có 30 chưng, mỗi chưng hụi là 500.000đ. Ông H tham gia 01 chưng. Dây hụi này có 20 chưng hụi đã hốt, 10 phần hụi sống. Sau đó tuyên bố bể hụi. Ông H đã đóng được 4.890.000 đồng. Do hụi bể nên ông H yêu cầu bị đơn trả số tiền của dây này là 10.000.000 đồng.
+ Đối với dây hụi mở ngày 30/5/2018, có 19 chưng. Mỗi chưng là 3.000.000 đồng, 02 tháng xổ một lần, đã chết 08 chưng, ông tham gia 01 chưng. Tổng số tiền đã đóng là 21.200.000 đồng. Hụi bể nên ông H yêu cầu bị đơn trả lại số tiền hụi của 08 chưng hụi chết là 24.000.000 đồng.
+ Đối với dây hụi ngày 10/9/2018, có 11 chưng. Mỗi chưng là 5.000.000 đồng, 02 tháng xổ một lần, đã chết 04 chưng, ông tham gia 01 chưng. Tổng số tiền đã đóng là 9.600.000 đồng. Hụi bể nên ông H yêu cầu bị đơn trả lại số tiền hụi của 04 chưng hụi chết là 20.000.000 đồng.
Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn đã rút một phần yêu cầu khởi kiện yêu cầu bị đơn trả lại số tiền hụi đã đóng qua các lần với số tiền cụ thển như sau: hụi ngày 25/3/2017 với số tiền là 4.890.000 đồng, hụi ngày 30/5/2018 với số tiền là 10.600.000 đồng, hụi ngày 10/9/2018 với số tiền là 9.600.000 đồng. Tổng số tiền nguyên đơn yêu cầu ông Ngà, bà X phải trả là 25.090.000 đồng.
Bị đơn Trần Ngọc N và bà Nguyễn Thị X thừa nhận có tổ chức mở hụi cho ông H tham gia. Ông N và bà X thống nhất với trình bày của ông Hậu về dây hụi, chưng hụi tham gia. Hụi đã bể do hoàn cảnh gia đình khó khăn. Tại biên bản ghi lời khai ngày 21/8/2020 của bà Nguyễn Thị X (BL 03) thì bà X thừa nhận có mở hụi cho ông H tham gia chơi như đã trình bày như trên. Việc rút lại một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có lợi cho bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nên ghi nhận. Ghi nhận nguyên đơn không yêu cầu tính lãi đối với bị đơn.
Từ những nhận định cho thấy yêu cầu đòi lại tiền hụi của nguyên đơn là có căn cứ, buộc bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có trách nhiệm trả cho nguyên đơn với số tiền là 25.090.000 đồng.
[4] Về án phí Dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.
Đối với ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:
+ Về việc tuân thủ theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa cũng như đương sự là phù hợp với quy định của pháp luật.
+ Về nội dung giải quyết vụ án: Với những phân tích nêu trên về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên đề nghị của Kiểm sát viên về nội dung này là phù hợp.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng :
- Khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Điều 440, Điều 471, Điều 468 Bộ luật dân sự;
- Nghị định số 19/2019/NĐ-CP Ngày 19 tháng 02 năm 2019 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường.
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử :
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Phạm Văn H.
Buộc bị đơn ông Trần Ngọc N và bà Nguyễn Thị X trả số tiền nợ hụi cho nguyên đơn ông Phạm Văn H với số tiền là 25.090.000 đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
2. Về án phí: Bị đơn ông Trần Ngọc N và bà Nguyễn Thị X phải chịu 1.254.500 đồng án phí dân sự sơ thẩm tại Chi cục Thị hành án Dân sự quận C. Nguyên đơn Phạm Văn H được nhận lại số tiền 1.300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 006473 ngày 02/11/2020 của Chi cục Thị hành án Dân sự quận C.
3. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 42/2021/DSST ngày 27/04/2021 về tranh chấp nợ hụi
Số hiệu: | 42/2021/DSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Cái Răng - Cần Thơ |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 27/04/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về