Bản án 42/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 42/2020/HS-ST NGÀY 26/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 38/2020/TLST-HS ngày 10 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 38/2020/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2020 đối với:

Vì Văn T, sinh ngày: 22/9/1980 tại huyện M, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản H, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): Không biết chữ; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vì Văn Đ và bà Vì Thị H; có vợ là Lò Thị H, có 01 con; tiền án: Ngày 18/3/2019 Tòa án nhân dân huyện M xử phạt 18 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, chấp hành xong hình phạt tù ngày 02/5/2020 (chưa được xóa án tích); tiền sự: Không; bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/8/2020 đến nay; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 03/8/2020, T điều khiển xe máy BKS: 78L1-136.12 đi đến bản C, xã Đ, huyện M mục đích tìm mua ma túy để sử dụng. Khi đang đi trên đường dân sinh của bản C, T gặp và mua được của một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết 01 gói Heroine được gói bằng mảnh nilon màu trắng và 01 viên ma túy hồng phiến với giá 80.000 đồng. Sau khi mua được ma tuý, trên đường về T đã sử dụng hết 01 viên hồng phiến, còn gói Heroine T cất giấu vào túi quần bên phải đang mặc rồi điều khiển xe máy đi về. Khi đi đến bản T, xã Đ thì bị tổ công tác Công an huyện Mộc Châu kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang. Vật chứng thu giữ: 01 gói nilon màu trắng bên trong đựng cục chất bột màu trắng nghi là Heroine, 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Exciter màu sơn xám đen BKS: 78L1-136.12 và 01 Giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe máy số 007031 số 007031 mang tên Nguyễn Trùng D.

Ngày 03/8/2020, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu đã tiến hành mở niêm phong, cân tịnh xác định khối lượng chất cục bột màu trắng thu giữ của Vì Văn T có khối lượng 0,19 gam. Lấy 0,10 gam làm mẫu trưng cầu giám định, mẫu có ký hiệu T.

Tại Kết luận giám định số 1283 ngày 07/8/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu T là ma tuý; Loại Heroine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,10 gam; Tổng khối lượng ma tuý thu giữ là 0,19 gam; Loại Heroine”.

Cáo trạng số 191/CT-VKS ngày 09/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu truy tố bị can Vì Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu giữ nguyên cáo trạng truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Vì Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và áp dụng các căn cứ pháp luật như sau:

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Vì Văn T từ 21 tháng đến 24 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a , c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ: Vì Văn T, bắt ngày 03/8/2020, bên trong đựng 0,09 gam Heroine, mảnh nilon màu trắng và vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 ( một) phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy của Vì Văn T, ngày 03/8/2020, HKTT: Bản H, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La, kq: Dương tính.

3. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

Tại phiên tòa, bị cáo Vì Văn T khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai trong quá trình điều tra, nhất trí với quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát và có lời nói sau cùng xin được giảm nhẹ mức hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Mộc Châu, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo Vì Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan Điều tra, số ma túy bị thu giữ là Heroine, có tổng khối lượng 0,19 gam, nguồn gốc là do ngày 03/8/2020 bị cáo mua của người đàn ông dân tộc Mông không quen biết, mục đích để sử dụng cho bản thân. Lời khai của bị cáo không có nội dung gì thay đổi so với lời khai tại cơ quan Cảnh sát điều tra, bị cáo khẳng định việc khai báo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với hành vi đã thực hiện.

Xét lời khai của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang do tổ công tác Công an huyện Mộc Châu lập vào hồi 16 giờ 30 phút ngày 03/8/2020; biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; biên bản mở niêm phong xác định số lượng, khối lượng, lấy mẫu giám định, niêm phong lại vật chứng đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; kết luận giám định số 1283 ngày 07/8/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu T là ma tuý; Loại Heroine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,10 gam; Tổng khối lượng ma tuý thu giữ là 0,19 gam; Loại Heroine” nằm trong danh mục I, số thứ tự 9 Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, trong quá trình điều tra và các tài liệu, chứng cứ của Cơ quan điều tra đã thu thập được trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ nêu trên Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo Vì Văn T là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại của việc tàng trữ, sử dụng ma túy. Nhưng do nghiện chất ma túy nên ngày 03/8/2020 bị cáo Vì Văn T đã có hành vi tàng trữ, cất giấu trái phép 0,19 gam Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết định khung hình phạt: Hành vi của bị cáo Vì Văn T không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khác nên chỉ bị xét xử ở điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 18/3/2019 Vì Văn T bị Tòa án nhân dân huyện M xử phạt 18 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, chưa được xóa án tích. Do đó bị cáo bị áp dụng một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, do đó cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

Về nhân thân của bị cáo: Bị cáo là người có nhân thân xấu, là đối tượng nghiện ma túy, có một tiền án chưa được xóa án tích cùng về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng rèn luyện bản thân mà tiếp tục phạm tội.

Từ những đánh giá nêu trên Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo, đồng thời mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

[3] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) đến 500.000.000 đồng (Năm trăm triệu đồng). Hội đồng xét xử xét thấy quá trình điều tra và thẩm vấn công khai tại phiên tòa thấy rằng bị cáo không có tài sản gì có giá trị, là người nghiện ma tuý, không có điều kiện thi hành hình phạt bổ sung, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về vật chứng, xử lý vật chứng:

Đối với 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Exciter màu sơn xám đen BKS: 78L1- 136.12 và 01 Giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe máy số 007031 số 007031 mang tên Nguyễn Trùng D. Quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của anh Vì Văn H, sinh năm: 1981, nơi cư trú: Bản H, xã C, huyện M (em trai Vì Văn T). Hiện nay H đang đi điều trị cai nghiện ma túy, trước khi đi cai nghiện Hòa giao chiếc xe máy cho bà Vì Thị H (là mẹ đẻ) quản lý, việc T sử dụng xe máy làm phương tiện phạm tội anh H, bà H đều không biết.

Ngày 02/10/2020 cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu đã Quyết định trưng cầu giám định số khung, số máy của xe máy BKS: 78L1-136.12 có phải là số nguyên thủy không, nếu không thì số máy nguyên thủy là gì? Giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe máy số 007031 mang tên Nguyễn Trùng D là thật hay giả. Tại kết luận giám định số 1595 ngày 19/10/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Số máy F3D4E498605, số khung RLCUG0610HY477034 trên chiếc xe máy gửi giám định không phải là số máy, số khung nguyên thủy; không xác định được số khung, số máy nguyên thủy. Tại kết luận giám định số 1608 ngày 26/10/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe máy số 007031 mang tên Nguyễn Trùng D do Công an huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên cấp ngày 24/8/2017 là Giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe máy giả. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu đã gửi thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng tìm chủ sở hữu chiếc xe máy. Do đó cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu tiếp tục tạm giữ 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Exciter màu sơn xám đen BKS: 78L1-136.12 và 01 Giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe máy số 007031 số 007031 mang tên Nguyễn Trùng D để phục vụ cho công tác điều tra, giải quyết sau này, vì vậy Hội đồng xét xử không đề cập đến việc xử lý.

Đối với 01 (một) phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ: Vì Văn T, bắt ngày 03/8/2020, bên trong đựng 0,09 gam Heroine, mảnh nilon màu trắng và vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 ( một) phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy của Vì Văn T, ngày 03/8/2020, HKTT: Bản H, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La, kq: Dương tính. Xét thấy đây là những vật thuộc loại Nhà nước cấm mua bán, lưu hành, tàng trữ, vật không có giá trị sử dụng. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a , c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Về các vấn đề khác: Đối với người đàn ông dân tộc Mông đã bán ma túy cho Vì Văn T tại khu vực đường dân sinh của bản C, xã Đ, huyện M. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ. Do đó, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu không có căn cứ để điều tra, làm rõ và xử lý.

[6] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) phù hợp với khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tiếp tục tạm giam bị cáo Vì Văn T để đảm bảo cho việc thi hành án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Vì Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Vì Văn T 24 (Hai mươi bốn) tháng tù.

Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 03/8/2020.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a , c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Về vật chứng của vụ án:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ: Vì Văn T, bắt ngày 03/8/2020, bên trong đựng 0,09 gam Heroine, mảnh nilon màu trắng và vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 ( một) phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy của Vì Văn T, ngày 03/8/2020, HKTT: Bản H, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La, kq: Dương tính.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Vì Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng chẵn).

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 42/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:42/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;