Bản án 42/2020/HNGĐ-ST ngày 30/12/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIM THÀNH, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 42/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/12/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 238/2020/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 47/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 11 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 55/2020/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Q, sinh năm 1994.

ĐKHK: Thôn C, xã T, huyện K, tỉnh Hải Dương.

Nơi cư trú: Khu K, phường A, thị xã K, tỉnh Hải Dương.

2. Bị đơn: Anh Vũ Thành Gia T, sinh năm 1991.

Địa chỉ: Thôn C, xã T, huyện K, tỉnh Hải Dương.

(Nguyên đơn đề nghị xét xử vắng mặt, Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, được bổ sung bởi biên bản tự khai, biên bản lấy lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn trình bày:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Vũ Thành Gia T kết hôn trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, đăng ký tại UBND Xã V (nay là xã T), huyện Kim Thành vào tháng 2/2015. Sau khi kết hôn thì vợ chồng sống cùng gia đình bố mẹ đẻ anh T tại xã T, Kđược khoảng 1 năm 6 tháng thì chuyển sang thị trấn A, huyện K (nay là phường A, thị xã K) thuê nhà tại đó để ở và bán hàng. Ngay sau khi kết hôn thì vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn; nguyên nhân do anh T thường xuyên bỏ nhà đi chơi game, anh T bỏ công việc, không đi làm và không quan tâm gì đến gia đình, vợ con nên trong cuộc sống vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã, xúc phạm nhau. Nhiều lần anh T đập phá đồ đạc trong nhà; từ năm 2017 chị nghi ngờ anh T sử dụng ma túy. Chị đã rất nhiều lần nhờ gia đình chồng khuyên Bảo A T nhưng gia đình chồng do bênh anh T nên không can thiệp gì; đến năm 2018, khi mâu thuẫn vợ chồng căng thẳng thì chị mới nói cho mẹ đẻ chị biết và mẹ chị cùng chị cũng khuyên Bảo A T nhưng anh Tân không thay đổi. Do cuộc sống vợ chồng căng thẳng nên đã sống ly thân từ tháng 5/2019 đến nay; anh T về gia đình bố mẹ đẻ ở T sinh sống, chị vẫn sống tại căn nhà thuê ở thị xã K. Từ khi sống ly thân cho đến nay thì anh T bỏ mặc, không quan tâm gì đến chị. Do vợ chồng sống ly thân đã lâu, đến nay chị nhận thấy vợ chồng không còn tình cảm, không thể tiếp tục chung sống nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Vũ Thành Gia T.

2. Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân vợ chồng có 02 con chung là cháu Vũ Nguyễn Bảo A, sinh ngày 13/12/2015 và cháu Vũ Nhật M, sinh ngày 30/5/2017. Khi vợ chồng sống ly thân thì anh T đón cả 02 con chung về gia đình bố mẹ đẻ anh T ở Tuấn Việt, Kim Thành, Hải Dương. Tháng 10/2019 thì chị mới đón con nhỏ là Vũ Nhật M về nuôi dưỡng tại thị xã K; cháu Vũ Nguyễn Bảo A vẫn do anh T nuôi dưỡng tại gia đình bố mẹ đẻ anh T. Khi chị làm đơn khởi kiện ly hôn thì chị có trao đổi với anh T và thống nhất vợ chồng mỗi người sẽ nuôi 01 con, chị nuôi cháu M, anh T nuôi cháu Bảo A.

3. Về tài sản chung, nợ chung vợ chồng: Trong thời kỳ hôn nhân vợ chồng không có tài sản chung, nợ chung nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Quan điểm của bị đơn:

* Quan điểm của bị đơn: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, các văn bản tố tụng của Tòa án và triệu tập Bị đơn đến Tòa án để trình bày quan điểm đối với yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn và cung cấp tài liệu chứng cứ. Tuy nhiên tất cả các lần Tòa án triệu tập cũng như phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải thì Bị đơn đều vắng mặt không có lý do.

Theo yêu cầu của đương sự, Tòa án đã tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ về mâu thuẫn vợ chồng, về nuôi dưỡng con chung; cụ thể như sau:

- Xác minh tại Công an xã Tuấn Việt, Kim Thành: Anh Vũ Thành Gia T đăng ký hộ khẩu và hiện nay cư trú, sinh sống tại thôn Cam Đông, xã Tuấn Việt, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương.

- Xác minh tại UBND xã T, huyện K: Chị Nguyễn Thị Q và anh Vũ Thành Gia T đăng ký kết hôn tại UBND xã vào tháng 2/2015. Trong thời gian chung sống thì vợ chồng có mâu thuẫn, do bất đồng về quan điểm sống, anh T không chịu làm ăn, không quan tâm gì đến gia đình vợ con.

- Bà Phạm Văn L (bố đẻ anh T) khai: Vợ chồng Q, anh T trong quá trình chung sống thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do anh T mải chơi, không chịu làm ăn và không quan tâm đến cuộc sống gia đình. Do mâu thuẫn nên vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 8/2018, không còn quan tâm đến nhau.

- Bà Nguyễn Thị M (Mẹ đẻ chị Q) khai: Vợ chồng chị Q, anh T có xảy ra mâu thuẫn do anh T ham chơi bời, không quan tâm gì đến gia đình, vợ con nên thường xảy ra cãi vã, xúc phạm nhau. Bà đã nhiều lần khuyên bảo nhưng anh T không thay đổi. Từ tháng 5/2019 vợ chồng chị Q, anh T đã sống ly thân.

Tại phiên tòa:

- Nguyên đơn đề nghị xét xử vắng mặt; vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn và giải quyết vấn đề nuôi con chung khi ly hôn.

- Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2 không có lý do.

- Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến trước khi nghị án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và Thư ký Toà án đã thực hiện đúng quy định pháp luật. Nguyên đơn chấp hành nghiêm chỉnh quy định của pháp luật và của Tòa án; bị đơn không chấp hành quy định của pháp luật.

Về hướng giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị Q được ly hôn anh Vũ Thành Gia T. Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị Q được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu Vũ Nhật M, sinh ngày 30/5/2017; giao cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu Vũ Nguyễn Bảo A, sinh ngày 13/12/2015; thời điểm thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với nuôi dưỡng con chung tính từ tháng 12/2020 cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi. Chấp nhận sự tự nguyện của chị Q không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung. Người không trực tiếp nuôi dưỡng con chung có quyền, nghĩa vụ thăm nom con không ai được cản trở. Về tài sản chung, nợ chung vợ chồng: Nguyên đơn không yêu cầu nên không đặt ra việc giải quyết. Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án về “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn hiện đang cư trú, sinh sống tại xã T, huyện K, tỉnh Hải Dương nên thẩm quyền giải quyết vụ án thuộc Tòa án nhân dân huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Ngày 18/12/2020, Tòa án nhân dân huyện Kim Thành đã mở phiên tòa để xét xử vụ án, Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Giấy triệu tập đã được tống đạt hợp lệ cho các đương sự, tuy nhiên tại phiên tòa bị đơn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử đã ra Quyết định hoãn phiên tòa và tiếp tục tống đạt hợp lệ Quyết định hoãn phiên tòa, Giấy triệu tập. Tại phiên tòa hôm nay Nguyên đơn đề nghị xử vắng mặt, Bị đơn mặc dù đã được triệu tập hợp lệ đến tham gia tố tụng tại phiên tòa lần 2 nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Tòa án căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Q và anh Vũ Thành Gia T tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện K, tỉnh Hải Dương vào tháng 02/2015 nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp.

[3] Căn cứ các tài liệu chứng cứ đã được thu thập trong quá trình giải quyết vụ án, xác định: Trong thời kỳ hôn nhân thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, mặc dù mâu thuẫn vợ chồng đã được hai bên gia đình khuyên bảo nhiều lần nhưng cuộc sống tình cảm vợ chồng không được cải thiện. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã triệu bị đơn đến để trình bày quan điểm đối với yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn; triệu tập các đương sự để để tiến hành hòa giải đoàn tụ nhưng bị đơn đều vắng mặt không có lý do; điều này không những thể hiện sự không tuân thủ, chấp hành quy định của pháp luật mà còn thể hiện không có nguyện vọng đoàn tụ vợ chồng. Trước khi Nguyên đơn khởi kiện thì vợ chồng đã sống ly thân, trong suốt quá trình giải quyết vụ án vợ chồng vẫn tiếp tục sống ly thân, bị đơn cũng không có những biện pháp cụ thể để khắc phục mâu thuẫn, hàn gắn tình cảm vợ chồng; đến thời điểm hiện tại vợ chồng không còn thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau; sống bỏ mặc, không quan tâm đến nhau. Tại phiên tòa hôm nay Nguyên đơn xác định vợ chồng không còn tình cảm và vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn; do vậy, có đủ căn cứ để xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung vợ chồng không thể kéo dài nên chấp nhận yêu cầu khởi kiện, giải quyết cho chị Nguyễn Thị Q được ly hôn với anh Vũ Thành Gia T.

[4] Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Vũ Nguyễn Bảo A, sinh ngày 13/12/2015 và cháu Vũ Nhật M, sinh ngày 30/5/2017. Chị Q có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con chung Vũ Nhật M; giao con chung là cháu Vũ Nguyễn Bảo A cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng và tự nguyện không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con. Xét yêu cầu này thì thấy: Từ khi vợ chồng sống ly thân thì chị Q là người trực tiếp nuôi dưỡng Vũ Nhật M; anh T là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu Vũ Nguyễn Bảo A. Do vợ chồng có 02 con chung và hiện nay mỗi người đều đang trực tiếp nuôi dưỡng 01 con chung; mặt khác chị Q và anh T đều có công việc, thu nhập và chỗ ở ổn định, được gia đình tạo điều kiện hỗ trợ trong việc trông nom nên đều đảm bảo cho việc nuôi dưỡng con chung. Do vậy, để đảm bảo sự ổn định trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc của con chung, tiếp tục giao con chung Vũ Nhật M cho chị Q trực tiếp nuôi dưỡng; giao con chung Vũ Nguyễn Bảo A cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng là đảm bảo quyền lợi mọi mặt của con chung và phù hợp quy định tại Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình.

Chấp nhận sự tự nguyện của chị Q về việc không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[5] Về tài sản, nợ chung vợ chồng: Nguyên đơn không yêu cầu nên không đặt ra xem xét, giải quyết trong vụ án này.

[6] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm ly hôn theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Luật phí, lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ: Điu 39 của Bộ luật dân sự. Các Điều 51, Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật hôn nhân gia đình. Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35;

điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228; Điều 147 Bộ Luật tố tụng dân sự. Luật phí và lệ phí. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

* Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Q:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Q được ly hôn với anh Vũ Thành Gia T.

- Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị Q được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là cháu Vũ Nhật M, sinh ngày 30/5/2017; giao cho anh Vũ Thành Gia T trực tiếp nuôi dưỡng cháu Vũ Nguyễn Bảo A. Thời điểm thực hiện quyền, nghĩa vụ đối với việc nuôi dưỡng, chăm sóc con chung tính từ tháng 12/2020 cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi.

Chấp nhận sự tự nguyện của chị Nguyễn Thị Q về việc không yêu cầu anh Vũ Thành Gia T phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con chung.

+ Về tài sản, nợ chung vợ chồng: Nguyên đơn không yêu cầu nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

+ Về án phí: Chị Nguyễn Thị Q phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm;

được đối trừ với số tiền 300.000đ tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương theo Biên lai nộp tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2018/0001567 ngày 02/10/2020. Chị Q đã thực hiện xong nghĩa vụ án phí ly hôn sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm; vắng mặt các đương sự. Báo cho các đương sự biết được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo Điều 6;7;9 luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 42/2020/HNGĐ-ST ngày 30/12/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:42/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Thành - Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;