Bản án 42/2020/HNGĐ-ST ngày 13/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC YÊN, TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 42/2020/HNGĐ-ST NGÀY 13/08/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

 Ngày 13 tháng 8 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái tiến hành xét xử công khai sơ thẩm vụ án thụ lý số: 110/2020/TLST– HNGĐ ngày 27/5/2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2020/QĐXXST - DS ngày 16 tháng 7 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 44/2020/QĐST-HNGĐ ngày 14/8/2020; Thông báo mở lại phiên tòa số: 20/2020/TB-XX ngày 31/7/2020 giữa:

1. Nguyên đơn: anh Vi Văn D, sinh năm 1990 Điạ chi: Thôn T, xã M, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái (có mặt)

2. Bị đơn: chị Nguyễn Bích T, sinh năm 1992 Điạ chỉ: Thôn T, xã M, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái (vắng mặt, không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 27/5/2020, bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn Vi Văn D trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: anh và chị Nguyễn Bích T kết hôn trên vào ngày 10/02/2012 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân (UBND) xã M, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bai. Sau khi kết hôn vơ chồng chung sống hòa thuận sau đó cùng đi làm ăn ở miền Nam, đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do chị T không chăm lo và phá tán tài sản kinh tế gia đình. Vợ chồng đã sống ly thân từ đó đến này, không còn quan tâm đến nhau. Nay anh D xác định tình cảm không còn, yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn.

Về con chung: anh và chị T có 02 con chung Vi Thị Kim Y, sinh ngày 21/10/2012 và Vi Nguyễn Hoàng P, sinh ngày 30/01/2017, hiện các con đang ở cùng anh. Sau khi ly hôn, anh D có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu chị T phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: anh D không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Lục Yên đã tiến hành tống đạt hợp lệ, đồng thời niêm yết công khai theo luật định các văn ban tố tung đối với bi ̣ đơn Nguyễn Bích T nhưng chị T không có mặt. Tòa án lập biên bản kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, biên bản không hòa giải được và đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyên Luc Yên phát biểu ý kiến cho rằng trong quá trình tố tụng, Tòa án và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng; đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử về nội dung vụ án như sau:

Căn cư Điều 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014: Về quan hệ hôn nhân giải quyết cho anh D được ly hôn với chị T, về con chung giao cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung, chị T không phải cấp dưỡng nuôi con. Về án phí anh D phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của kiểm sát viên. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái.

Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia xét xử lần hai nhưng vắng mặt, không lý do. Vì vậy, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định tại Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: anh Vi Văn D và chị Nguyễn Bích T kết hôn vao ngay 10/02/2012 có đăng ký kết hôn tại UBND xã M, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái, việc kết hôn này tuân thủ đúng các quy định của Luật hôn nhân và gia đình do đó đây là hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu ly hôn của nguyên đơn: lời khai của nguyên đơn thể hiện sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do chị T ham chơi, không tu chí làm ăn và phá tán tài sản kinh tế gia đình. Mâu thuẫn kéo dài không thể khắc phục được, từ đó vợ chồng sống ly thân không còn quan tâm đến nhau. Hiện tại anh D cùng con chung sinh sống tại xã M, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái. Lời khai của nguyên đơn là phù hợp với nội dung biên bản xác minh của Tòa án. Tại phiên tòa hôm nay, anh D vẫn giữ nguyên yêu cầu Tòa án giải quyết cho vơ chồng đươc ly hôn.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”.

Xét thấy quan hệ hôn nhân giữa anh D và chị T đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, theo quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, yêu cầu khởi kiện ly hôn cua anh D, có căn cứ chấp nhận.

[3] Về con chung: anh D và chị T có 02 con chung Vi Thị Kim Y, sinh ngày 21/10/2012 và Vi Nguyễn Hoàng P, sinh ngày 30/01/2017, kết quả xác minh xác định hiện tại các con chung đang do anh D trực tiếp nuôi dưỡng có nơi ở và học tập ổn định. Tại biên bản lấy lời khai của Tòa án, cháu Y có nguyện vọng ở cùng bố. Mặt khác, hiện tại chị T không có mặt tại nơi cư trú, không có mặt tại Tòa án do đó không có căn cứ để xém xét việc nuôi con.

Xuất phát từ lợi ích mọi mặt cũng như nguyện vọng của con chung, theo quy định tại Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình, cần giao hai con chung cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng, là phù hợp. Anh D không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung, nên Hội đồng xét xử không xét.

[4] Về tài sản chung va nợ chung: nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giai quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về án phí: anh Vi Văn D phải chịu toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 271, 273 của Bộ Luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 56; 57; 81; 82; 83 của Luật Hôn nhân gia đình;

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 228, 271, 273 của Bộ Luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ điểm a khoan 5 Điều 27 của Nghi ̣quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy điṇ h về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý va sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

1. Về quan hệ hôn nhân: anh Vi Văn D được ly hôn với chị Nguyễn Bích T.

2. Về con chung: giao cho anh Vi Văn D trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Vi Thị Kim Y, sinh ngày 21/10/2012 và Vi Nguyễn Hoàng P, sinh ngày 30/01/2017 cho đến khi đủ18 tuổi. Chị Nguyễn Bích T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: anh Vi Văn D phải chiụ 300.000đ (ba trăm nghìn đồng chẵn) tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng chẵn) theo biên lai số AA/2017/0008156 ngày 27/5/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái. Anh D đã nộp đủ tiền án phí.

4. Về quyền kháng cáo: anh D được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, chị T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 42/2020/HNGĐ-ST ngày 13/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:42/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Yên - Yên Bái
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;