TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRÀ ÔN, TỈNH VĨNH LONG
BẢN ÁN 42/2020/HNGĐ-ST NGÀY 03/08/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON
Ngày 03 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 151/2020/TLST- HNGĐ ngày 18 tháng 5 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn và nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 45/2020/QĐST-HNGĐ ngày 01/7/2020, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1983 (có mặt) Địa chỉ: ấp T, xã T1, huyện T2, tỉnh Vĩnh Long.
- Bị đơn: Anh Trịnh Văn N, sinh năm 1976.(vắng mặt) Địa chỉ: ấp T, xã T1, huyện T2, tỉnh Vĩnh Long.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn xin ly hôn, bản tự khai cùng ngày 13/5/2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị L trình bày: Chị và anh Trịnh Văn N thành hôn vào năm 2007 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã T1, huyện T2, tỉnh Vĩnh Long ngày 21/11/2008. Thời gian vợ chồng chung sống được gần 12 năm lúc đầu có hạnh phúc, sau thường phát sinh mâu thuẫn do anh N có hành vi bạo lực gia đình, không lo cho vợ con nên vợ chồng đã ly thân nhau khoảng 01 năm nay. Chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục chung sống, chị yêu cầu được ly hôn với anh N. Về con chung, vợ chồng có 01 con chung tên Trịnh Gia H, sinh ngày 09/8/2007 hiện đang sống chung với chị, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi con, không yêu cầu anh N phải cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung, nợ chung chị L không yêu cầu giải quyết.
Sau khi thụ lý vụ án Toà án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho bị đơn là anh Trịnh Văn N. Đồng thời triệu tập các đương sự đến tham gia phiên hoà giải nhiều lần nhưng phía anh N không trình bày ý kiến bằng văn bản gởi cho Toà án. Toà án quyết định đưa vụ án ra xét xử và triệu tập các đương sự đến tham gia phiên toà nhưng anh N vẫn vắng mặt không lý do nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị đơn anh Trịnh Văn N tại phiên toà hôm nay.
Tại bản khai ý kiến ngày 14/3/2020 cháu Trịnh Gia H trình bày: Nguyện vọng cháu muốn được sống với mẹ.
Tại biên bản xác minh ngày 03/7/2020 ông Trịnh Văn P là cha ruột của anh Trịnh Văn N trình bày: Anh N đã có vợ trước, do anh N thường xuyên đánh đập vợ con nên vợ chồng đã ly hôn. Sau đó, anh N kết hôn với chị L, anh N cũng không thay đổi, không chung thủy trong quan hệ vợ chồng, không phụ vợ chi phí chăm sóc nuôi dưỡng con, thường xuyên đánh đập vợ nên chị L xin ly hôn. Riêng cháu Gia H từ nhỏ đến nay do chị L trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, cháu được học hành đầy đủ và phát triển bình thường.
Tại phiên tòa:
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trà Ôn phát biểu:
- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa:Thẩm phán được phân công thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện cơ bản đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.
- Việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật. Bị đơn không gởi văn bản trình bày ý kiến, không tham gia các phiên họp, phiên hòa giải và phiên tòa là vi phạm Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về hướng giải quyết vụ án:
Đề nghị áp dụng khoản 4, Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; các điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
- Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị xử cho chị Nguyễn Thị L được ly hôn với anh Trịnh Văn N - Về con chung: Đề nghị giao cháu Trịnh Gia H, sinh ngày 09/8/2007 cho chị Nguyễn Thị L tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh Trịnh Văn N không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền, nghĩa vụ thăm nôm chăm sóc giáo dục con chung, không ai được cản trở.
- Về án phí dân sự sơ thẩm: Đề nghị buộc chị Nguyễn Thị L có nghĩa vụ nộp 300.000đ án phí ly hôn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về sự có mặt của đương sự: Bị đơn anh Trịnh Văn N đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẵn vắng mặt không lý do. Căn cứ khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị đơn.
[2] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị L và anh Trịnh Văn N thành hôn năm 2007, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã T1, huyện T2, tỉnh Vĩnh Long ngày 21/11/2008 nên xem đây là hôn nhân hợp pháp, phù hợp theo quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình.
[3] Quá trình chung sống, giữa chị Nguyễn Thị L và anh Trịnh Văn N có xảy ra mâu thuẩn do anh N không quan tâm chăm sóc vợ con, thường xuyên đánh đập vợ và không chung thủy trong quan hệ vợ chồng. Nguyên nhân xảy ra mâu thuẩn vợ chồng giữa chị L và anh N là do lỗi của anh N, việc này ông Trịnh Văn P (cha ruột của anh N) xác nhận và vợ chồng đã cắt đứt quan hệ khoản 01 năm nay. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án triệu tập anh Trịnh Văn N nhiều lần đến tham gia hòa giải nhằm giúp đỡ chị L, anh N đoàn tụ nhưng anh N vắng mặt không lý do. Chứng tỏ, anh N không mong muốn vợ chồng đoàn tụ. Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy: mâu thuẫn vợ chồng giữa chị L và anh N lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn chị Nguyễn Thị L là phù hợp theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.
[4] Về con chung: Giữa chị Nguyễn Thị L và anh Trịnh Văn N có 01 con chung là Trịnh Gia H, sinh ngày 09/8/2007 hiện đang sống chung với chị L. Chị L yêu cầu được tiếp tục nuôi con. Hội đồng xét xử nhận thấy từ khi chị L, anh N chấm dứt quan hệ vợ chồng cháu H do chị L trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Cháu phát triển bình thường được học hành đầy đủ và cháu H có nguyện vọng được tiếp tục sống chung với mẹ. Mặc khác, anh N đã được thông báo về nội dung khởi kiện của chị L nhưng anh N không có ý kiến phản đối về việc chị L yêu cầu tiếp tục nuôi con. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần giao cháu Trịnh Gia H, sinh ngày 09/8/2007 cho chị Nguyễn Thị L tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc là phù hợp theo quy định tại Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình.
[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Việc cấp dưỡng nuôi con là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con theo quy định tại Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình. Chị Nguyễn Thị L là người đang trực tiếp nuôi con nhưng chị L không yêu cầu anh N có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị L và anh Trịnh Văn N không yêu cầu giải quyết nên miễn xét.
[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị L có nghĩa vụ nộp số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn theo quy định tại khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[8] Từ những phân tích trên Hội đồng xét xử xét thấy ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát có căn cứ chấp nhận toàn bộ.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 4, Điều 147, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Áp dụng các điều 56, 58, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình; khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị L ly hôn với anh Trịnh Văn N.
2. Về con chung: Giao con chung là Trịnh Gia H, sinh ngày 09/8/2007 cho chị Nguyễn Thị L tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng. Anh Trịnh Văn N không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc nguyên đơn chị Nguyễn Thị L có nghĩa vụ nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0016100 ngày 13/5/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trà Ôn, chị L đã nộp đủ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành th eo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
4. Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, riêng bị đơn vắng mặt nên được quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án 42/2020/HNGĐ-ST ngày 03/08/2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con
Số hiệu: | 42/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Trà Ôn - Vĩnh Long |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 03/08/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về