Bản án 42/2019/HS-ST ngày 25/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỮU LŨNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 42/2019/HS-ST NGÀY 25/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 43/2019/TLST-HS ngày 12 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 43/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Lê Văn D, sinh ngày 26 tháng 9 năm 1989 tại huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Nơi cư trú: Thôn L, xã P, huyện T, tỉnh Bắc Giang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn D và bà Nguyễn Thị V; vợ Nguyễn Thị L, sinh năm 1995; con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Chưa từng bị xử lý hành chính, xử lý kỷ luật; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/5/2019 cho đến nay. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1977; địa chỉ: Thôn Đ, xã L, huyện T, tỉnh Bắc Giang. Có mặt.

2. Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1988; địa chỉ: Thôn Đ, xã L, huyện T, tỉnh Bắc Giang. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ ngày 09/5/2019, tại Trạm thu phí BOT ở km 93 + 160 Quốc lộ 1A, thuộc địa phận thôn B, xã M, huyện H Công an huyện Hữu Lũng bắt quả tang Lê Văn D điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 98D1 – 498.72 theo hướng Hà Nội – Lạng Sơn có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Khi phát hiện lực lượng Công an, D thả từ tay phải xuống đường 01 gói ni lông màu hồng hàn kín, kích thước 1cm x 2,5cm. Kiểm tra gói ni lông phát hiện bên trong có 01 gói giấy bạc màu trắng, kích thước 1cm x 2cm, trong đựng chất bột màu trắng.

Thu giữ tại túi quần bên trái: 01 lọ thủy tinh hình trụ, màu nâu, nắp nhựa màu trắng, bên trong có chứa chất dung dịch dạng lỏng, bên ngoài lọ có nhãn mác có chữ: PULMOREST; 01 bật lửa ga màu đỏ, đã qua sử dụng.

Thu giữ tại túi quần bên phải: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen, đã qua sử dụng, số IMEI: 355000114915086.

Thu giữ trong cốp xe mô tô: 01 lọ thủy tinh hình trụ, màu nâu, nắp nhựa màu trắng, bên trong có chứa chất dung dịch dạng lỏng, bên ngoài có nhãn mác có chữ: PREGOLD.

Cơ quan điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Lê Văn D tại thôn L, xã P, huyện T, tỉnh Bắc Giang thu giữ: 01 lọ thủy tinh màu nâu, nắp màu trắng, có dán mác có chữ OLESOMS, bên trong đựng chất ở thể lỏng.

Tại các bản kết luận giám định số 177/KL-PC09 ngày 11/5/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn và số 2556/C09-TT2 ngày 21/5/2019 của Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận:

- Chất bột màu trắng gửi giám định là chất ma túy Heroine, có khối lượng 0,141gam (đã trừ bì).

- Chất lỏng trong 03 lọ thủy tinh có tổng thể tích 71ml gửi giám định có chứa chất ma túy Methadone, có tổng khối lượng 1,1765 gam.

Quá trình điều tra làm rõ: Lê Văn D bắt đầu sử dụng ma túy Heroine từ khoảng đầu năm 2018 dưới hình thức hít. Trưa ngày 06/5/2019, D đến ngã tư thị trấn N, huyện T, tỉnh Bắc Giang mua 01 lọ thủy tinh đựng chất ma túy Methadone của một người đàn ông không rõ tên, tuổi, địa chỉ với giá 220.000đ, mục đích để cai nghiện ma túy Heroine. Sau đó, D mang về nhà cất giữ, chưa sử dụng. Sáng ngày 09/5/2019, D sang nhà anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1977, trú tại: Thôn Đ, xã L, huyện T, tỉnh Bắc Giang mượn xe mô tô biển kiểm sát 98D1 – 498.72 để đi lên thôn C, xã T, huyện H, tỉnh Lạng Sơn trông rừng và cai nghiện ma túy. Sau khi mượn xe, D điều khiển xe mô tô về nhà, lấy lọ thủy tinh chứa chất ma túy Methadone chia vào 02 lọ thủy tinh khác. Tổng cộng có 03 lọ thủy tinh chứa chất ma túy Methadone. D cầm theo 02 lọ thủy tinh rồi điều khiển xe đi lên huyện H, tỉnh Lạng Sơn, còn 01 lọ thủy tinh để ở nóc tủ quần áo trong phòng ngủ. Khi đi đến ngã tư thị trấn N, D nảy sinh ý định mua ma túy Heroine để sử dụng nên đã nhờ một người xe ôm, không rõ tên, tuổi, địa chỉ mua hộ D 01 gói ma túy Heroine với giá 200.000đ.

Khi đi cách thị trấn N khoảng 1km, D rẽ vào một ngôi nhà hoang cạnh đường, sử dụng một ít ma túy Heroine trong gói ma túy vừa mua. Số ma túy còn lại, D gói lại và lấy mảnh túi ni lông màu hồng cạnh đó bọc bên ngoài và dùng bật lửa hàn kín. Sau đó, D cầm gói ma túy ở tay phải rồi điều khiển xe đi lên huyện H, tỉnh Lạng Sơn. Khi đến Trạm thu phí thuộc thôn B, xã M, huyện H, tỉnh Lạng Sơn thì bị Công an huyện Hữu Lũng bắt quả tang.

Đối với người đàn ông bán chất ma túy Methadone cho D, D khai nhận: Khoảng đầu tháng 5/2019, D truy cập vào trang Web tên là “không ma túy”, mục đích để mua thuốc cai nghiện (sau này D biết đó là ma túy Methadone). Ngày 06/5/2019, D gọi vào số điện thoại có trên trang web và đặt mua chất ma túy Methadone. Hai bên thực hiện mua bán tại ngã tư thị trấn N. Do D không biết tên, tuổi, địa chỉ của người đàn ông bán ma túy, cũng không nhớ cách truy cập vào trang web trên nên không có cơ sở điều tra làm rõ.

Đối với chiếc điện thoại di động D dùng để liên lạc mua ma túy Methadone, D đã làm rơi mất, không rõ ở đâu nên không thu giữ được.

Đối với người đàn ông làm nghề xe ôm mua ma túy hộ D, do D không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ xác minh làm rõ.

Tại Bản cáo trạng số 46/CT-VKSHL-HS ngày 11/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Lê Văn D về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Lê Văn D đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình như Cáo trạng đã truy tố.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Văn D phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và đề nghị áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 50 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Văn D từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 gói ni lông màu hồng hàn kín, bên trong có 01 gói giấy bạc màu trắng đựng ma túy Heroine, D mua trưa ngày 09/5/2019 ở ngã tư thị trấn N, mục đích để sử dụng; 03 lọ thủy tinh bên trong đựng chất ma túy Methadone, D mua trưa ngày 06/5/2019 tại ngã tư thị trấn N. Khi mua người bán đưa cho D 01 lọ thủy tinh đựng chất ma túy Methadone, D mang về chia sang 02 lọ thủy tinh khác;

01 bật lửa ga màu đỏ, D dùng để hút thuốc. Ngày 09/5/2019, D dùng để sử dụng ma túy Heroine và hàn gói ni lông đựng gói ma túy Heroine.

Trả lại cho bị cáo Lê Văn D 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen không liên quan đến vụ án.

Trả lại cho chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1988, trú tại: Thôn Đ, xã L, huyện T, tỉnh Bắc Giang 01 xe mô tô biển kiểm soát 98D1 – 498.72 nhãn hiệu Honda Wave RSX.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, lời nói sau cùng các bị cáo trình bày đã ăn năn hối cải xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa không có ai có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về trách nhiệm hình sự: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người tham gia tố tụng khác, phù hợp kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở khẳng định: Hồi 12 giờ ngày 09/5/2019, tại Trạm thu phí BOT ở km 93 + 160 Quốc lộ 1A, thuộc địa phận thôn B, xã M, huyện H, Công an huyện Hữu Lũng bắt quả tang Lê Văn D có hành vi tàng trữ trái phép 0,141 gam ma túy Heroine, 02 lọ thủy tinh chứa chất ma túy Methadone cùng một số tài sản, vật chứng khác có liên quan. Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Lê Văn D thu giữ 01 lọ thủy tinh chứa chất ma túy Methadone. Tổng khối lượng chất ma túy Methadone trong 03 lọ thủy tinh có tổng thể tích 71ml đã thu giữ là 0,1765 gam.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, là nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm khác, gây mất trật tự trị an, ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội.

[4] Với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo như trên, nhận thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân: Bị cáo không có tiền án, tiền sự tuy nhiên là đối tượng nghiện ma túy nên có nhân thân không tốt. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa thấy bị cáo sống cùng với bố mẹ, nghề nghiệp không ổn định, thu nhập thấp. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Đối với người đàn ông bán chất ma túy Methadone cho D, do bị cáo D không biết tên, tuổi, địa chỉ của người đàn ông bán ma túy, cũng không nhớ cách truy cập vào trang wed trên nên không có cơ sở điều tra làm rõ là có căn cứ.

[8] Đối với người đàn ông làm nghề xe ôm mua bán ma túy hộ D, do D không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ xác minh làm rõ là phù hợp.

[9] Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì dán kín trong đựng mẫu vật hoàn trả sau giám định có các chữ ký của giám định viên và cán bộ giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Lạng Sơn; 01 (một) hộp niêm phong dán kín số 2556/C09 (TT2), được niêm phong bởi các chữ ký của giám định viên của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an và cán bộ điều tra thuộc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn và các dấu hình đỏ của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an;

01 bật lửa ga màu đỏ, đã qua sử dụng. Trả lại cho bị cáo Lê Văn D 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, màu đen, đã qua sử dụng số IMEI: 355000114915086. Trả lại cho chị Nguyễn Thị T 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX, màu đen, đã qua sử dụng, biển kiểm soát 98D1 – 498.72.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50, điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 136, khoản 1, điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Lê Văn D phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Xử phạt bị cáo Lê Văn D 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 09/5/2019.

3. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì dán kín trong đựng mẫu vật hoàn trả sau giám định có các chữ ký của giám định viên và cán bộ giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Lạng Sơn; 01 (một) hộp niêm phong dán kín số 2556/C09 (TT2), được niêm phong bởi các chữ ký của giám định viên của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an và cán bộ điều tra thuộc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn và các dấu hình đỏ của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an; 01 bật lửa ga màu đỏ, đã qua sử dụng.

Trả lại cho bị cáo Lê Văn D 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, màu đen, đã qua sử dụng số IMEI: 355000114915086.

Trả lại cho chị Nguyễn Thị T 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX, màu đen, đã qua sử dụng, biển kiểm soát 98D1 – 498.72. (theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/7/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hữu Lũng và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn).

4. Về án phí: Buộc bị cáo Lê Văn D phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 42/2019/HS-ST ngày 25/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:42/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hữu Lũng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;